Vùng ven biển Quảng Trị thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng

Nhàđầutư
Ngoài việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng, cảng biển thì lĩnh vực năng lượng đang được tỉnh Quảng Trị dành nhiều cơ chế ưu tiên để thu hút mạnh các doanh nghiệp đầu tư.
VĂN TUÂN
19, Tháng 03, 2020 | 06:22

Nhàđầutư
Ngoài việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng, cảng biển thì lĩnh vực năng lượng đang được tỉnh Quảng Trị dành nhiều cơ chế ưu tiên để thu hút mạnh các doanh nghiệp đầu tư.

Với đường bờ biển dài 75 km, vùng ven biển Quảng Trị đang có tiềm năng lớn để "hút" doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng.

Theo thống kê, đến giữa tháng 3/2020, tỉnh Quảng Trị đã thu hút được trên 20 dự án điện mặt trời; có 1 dự án đã đi vào hoạt động, 2 dự án đang triển khai đầu tư xây dựng, 6 dự án đã trình Bộ Công Thương phê duyệt, các dự án còn lại đã được UBND tỉnh Quảng Trị đồng ý chủ trương cho nghiên cứu, khảo sát lập hồ sơ bổ sung quy hoạch.

qtr-2342

Vùng ven biển Quảng Trị đang có tiềm năng lớn để "hút" doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng.

Trong số đó, điện mặt trời ở vùng ven biển Quảng Trị có tổng công suất lên đến 1.500 MW, do có mức bức xạ mặt trời cao. Tại các xã vùng ven biển Gio Thành, Gio Hải thuộc Huyện Gio Linh, những nhà máy điện mặt trời đầu tiên ở Quảng Trị đã và đang được xây dựng.

Nhà máy điện mặt trời LIG - Quảng Trị có công suất 49,5MW, tổng vốn đầu tư hơn 1.100 tỷ đồng, do Công ty cổ phần Licogi 13 làm chủ đầu tư, đã hoàn thành và hòa lưới điện quốc gia. Đây là nhà máy điện mặt trời đầu tiên ở Quảng Trị đi vào vận hành.

Ngoài ra, Nhà máy điện mặt trời Gio Thành 1 và Gio Thành 2, đang triển khai xây dựng, có tổng công suất 100 MW, tổng vốn đầu tư gần 2.300 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành vào năm 2021.

ndqt-2339

Nhà máy điện mặt trời LIG - Quảng Trị cung cấp cho lưới điện Việt Nam sản lượng điện ước tính khoảng 67,73 triệu kWh/năm.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển điện mặt trời, tỉnh Quảng Trị đã đề nghị Bộ Công Thương đưa địa phương vào vùng mức xạ mặt trời số 1 (vùng 1), để tạo điều kiện cho tỉnh thu hút đầu tư phát triển điện mặt trời. 

Bên cạnh đó, việc xây dựng cảng biển nước sâu Mỹ Thủy, đã tạo thêm động lực cho các nhà đầu tư xây dựng các nhà máy điện khí, nhiệt điện tại Khu kinh tế ven biển Đông Nam Quảng Trị.

Hiện tại, Nhà máy nhiệt điện BOT Quảng Trị có công suất 1.320 MW, do Công ty Điện lực Quốc tế Thái Lan đầu tư, đang xây dựng tại Khu Kinh tế ven biển Đông Nam Quảng Trị, với tổng vốn trên 55.000 tỷ đồng, dự kiến phát điện tổ máy số 1 vào năm 2025. Đây là dự án có tổng mức vốn đầu tư lớn nhất thực hiện ở Quảng Trị từ trước đến nay.

nmnd

Nhà máy nhiệt điện BOT Quảng Trị có công suất 1.320 MW dự kiến phát điện tổ máy số 1 vào năm 2025

Cũng tại Khu Kinh tế ven biển Đông Nam Quảng Trị, Công ty Gazprom của Nga đang triển khai đầu tư nhà máy điện khí với công suất 340 MW. Tập đoàn T&T Group đang nghiên cứu thực hiện dự án nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng, tổng công suất dự kiến giai đoạn 1 là 1.200 - 1.500 MW, giai đoạn 2 từ 2.400 - 3.000 MW.

Theo đại diện lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Trị cho biết, vùng ven biển Quảng Trị có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; khai thác hiệu quả tài nguyên biển và vùng ven biển.

my-thuy-2346

Cảng đào Mỹ Thủy, là trọng tâm của Khu kinh tế Đông Nam – tỉnh Quảng Trị

Để thu hút đầu tư hiện nay tỉnh đã kiến nghị với Trung ương, đưa vào kế hoạch bố trí vốn trung hạn giai đoạn 2021-2025, để đầu tư xây dựng tuyến đường ven biển bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.

Ngoài ra, tỉnh cũng đã kiến nghị Chính phủ, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường bộ từ cảng biển Mỹ Thủy đến Cửa khẩu Quốc tế La Lay - Quốc lộ 15D, có chiều dài 92 km nhằm tăng cường giao thương, kết nối vùng ven biển Quảng Trị và các tỉnh Bắc Trung Bộ với khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25030.00 25048.00 25348.00
EUR 26214.00 26319.00 27471.00
GBP 30655.00 30840.00 31767.00
HKD 3156.00 3169.00 3269.00
CHF 27071.00 27180.00 27992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15862.00 15926.00 16400.00
SGD 18109.00 18182.00 18699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17920.00 17992.00 18500.00
NZD   14570.00 15049.00
KRW   17.26 18.81
DKK   3520.00 3646.00
SEK   2265.00 2349.00
NOK   2255.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ