Tăng kịch khung thuế BVMT với xăng dầu, từng ngõ ngách trong cuộc sống bị ảnh hưởng

Nhàđầutư
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhận định, việc tăng thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu sẽ làm tăng phí sinh hoạt của người dân, tăng phí sản xuất kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp đồng thời có thể dẫn đến lạm phát khi tất cả các chi phí, giá cả cũng tăng theo.
Minh Trang
17, Tháng 05, 2018 | 07:05

Nhàđầutư
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhận định, việc tăng thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu sẽ làm tăng phí sinh hoạt của người dân, tăng phí sản xuất kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp đồng thời có thể dẫn đến lạm phát khi tất cả các chi phí, giá cả cũng tăng theo.

Tăng kịch khung thuế BVMT, ngân sách thu hơn 55.000 tỷ

Mới đây, bộ Tài chính đã có văn bản gửi các bộ ngành và địa phương để xin ý kiến dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về biểu thuế BVMT, trong đó có đề nghị tăng thuế đối với một số hàng hóa và đề xuất có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2018. 

tang-thue-xang-dau

Tăng thuế BVMT đối với xăng, dầu sẽ gây áp lực lên toàn nền kinh tế

Theo quan điểm của bộ Tài chính, thuế Bảo vệ môi trường với xăng dầu được thực hiện từ năm 2012 đã phát huy được những hiệu quả đáng kể như: Nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với môi trường, khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hoá, đáp ứng yêu cầu phát triển bên vững; đồng thời đảm bảo lợi ích quốc gia trong điều kiện hội nhập sâu khi thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo cam kết quốc tế.

"Dòng thuế này cũng đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Cụ thể, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2017, tổng số thu từ thuế bảo vệ môi trường vào khoảng trên 150.000 tỷ đồng, bình quân hơn 25.000 tỷ đồng mỗi năm", Bộ Tài chính nêu.

Theo tính toán của bộ Tài chính, nếu thuế bảo vệ môi trường đối với xăng được tăng kịch khung từ mức 3.000 đồng/lít lên 4.000 đồng/lít, các mặt hàng dầu tăng kịch khung lên mức 2.000 đồng/lít, số thu từ dòng thuế này sẽ vào khoảng trên 55.000 tỷ đồng/năm, tăng khoảng 14.368 tỷ đồng/năm.

Bộ Tài chính vẫn bảo lưu quan điểm rằng, bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay của đất nước, nhất thiết phải nghiên cứu điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường lên mức phù hợp. Bởi, giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới và một số nước trong khối ASEAN và châu Á. Hiện, giá bán lẻ xăng dầu của Việt Nam đứng vị trí 47 từ thấp đến cao trong tổng số 167 quốc gia và thấp hơn 120 nước, với mức 19.980 đồng/lít.

"Các nghiên cứu cho thấy hàng hoá thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường như xăng, dầu, mỡ nhờn, than đá, túi nilon… trong quá trình sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Và cũng theo tính toán của các nhà khoa học, để trả lại môi trường thì thuế đối với các mặt hàng kể trên phải được điều chỉnh cao hơn rất nhiều", bộ Tài chính lập luận.

Tác động đến từng ngõ ngách của đời sống

Ngay sau khi dự thảo được công bố, nhiều chuyên gia khuyến cáo, việc tăng kịch khung thuế BVMT đối với xăng dầu sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và người tiêu dùng “lãnh đủ”. Bên cạnh đó, cũng có không ít người dân bày tỏ lo lắng khi loại thuế này tăng lên.

Trước những phản ứng khá gay gắt của người dân, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cho rằng: “Xăng dầu đi vào tất cả các ngõ ngách của cuộc sống. Từ những doanh nghiệp kinh doanh sản xuất cho đến người dân đều sử dụng xăng dầu. Vì thế tăng thuế xăng dầu sẽ tác động đến toàn nền kinh tế.”

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu chia sẻ, việc áp thuế BVMT lên xăng sẽ làm tăng phí sinh hoạt của người dân, tăng phí sản xuất kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp đồng thời có thể dẫn đến lạm phát khi tất cả các chi phí, giá cả cũng tăng theo.

Đồng quan điểm, chuyên gia về giá - PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, các lập luận của bộ Tài chính đưa ra cho đề xuất tăng thuế của mình chỉ mang tính ngụy biện, lập luận chưa thuyết phục và cố đạt được mục đích tăng thuế. Trong khi đó, theo ông Long, việc tăng thuế luôn ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh, kéo giảm tăng trưởng, nên các nước rất ít sử dụng công cụ này, đặc biệt khi chúng ta đang ưu tiên cho tăng trưởng.

“Để bù nguồn thu ngân sách thiếu hụt, giải pháp căn cơ là cơ cấu lại phần chi để giảm chi, mở rộng nguồn thu khác, phải nuôi dưỡng nguồn thu, không nhăm nhăm vào thu thuế từ xăng dầu. Các dự báo thời gian tới giá xăng dầu sẽ còn tăng cao, cộng với việc tăng thuế sẽ khiến giá xăng dầu bị đẩy quá mức”, ông Long nói.

Từ ngày 1/7/2018, mức thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng dầu được đề xuất tăng lên kịch khung quy định của luật. Cụ thể, xăng: Đề nghị tăng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần 4.000 đồng/lít. Dầu diesel: Đề nghị tăng từ 1.500 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít. Dầu mazut, dầu nhờn từ 900 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít. Mỡ nhờn: từ 900 đồng/kg lên mức trần 2.000 đồng/kg.

Tuy vậy, chuyên gia Phạm Sỹ Thành lại có góc nhìn khác khi cho rằng phần lớn băn khoăn của người dân về tăng thuế BVMT đang dồn lên xăng dầu, trong khi trên thực tế, một mặt hàng gây ô nhiễm môi trường hơn, nhưng lại chịu thuế môi trường thấp hơn là than đá.

“Một mặt hàng rất ô nhiễm là than đá không được nhắc tới, hiện thuế với than đá chỉ là 10.000 đồng/tấn. Có công bằng không khi người tiêu dùng phải trả phí môi trường nhiều hơn cho một mặt hàng không ô nhiễm bằng mặt hàng khác?

Tôi cho rằng ai gây ô nhiễm hơn phải đóng thuế cao hơn. Than đá liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp nhiệt điện, khai thác. Tại sao người dân lại phải đóng mức thuế cao hơn chứ không phải các doanh nghiệp kia?”.

Theo thống kê, 1 lít xăng hiện phải chịu 7 loại thuế, phí như: Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế BVMT; chi phí định mức, lợi nhuận định mức, chi quỹ bình ổn. Tổng các loại thuế, phí chiếm khoảng 8.500 đồng/lít xăng. Nếu thuế BVMT với xăng lên mức kịch khung thì xăng tăng giá sẽ khiến nhiều người gặp khó khăn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ