Tại sao giá dầu có thể âm và những chuyện thú vị phía sau cuộc chiến dầu giữa Nga và Ả Rập Saudi

Thật khó để tin rằng giá của bất kỳ hàng hóa nào có thể âm. Nhưng đó là những gì đã xảy ra với giá dầu.
HOÀNG AN
21, Tháng 04, 2020 | 11:12

Thật khó để tin rằng giá của bất kỳ hàng hóa nào có thể âm. Nhưng đó là những gì đã xảy ra với giá dầu.

mw-ie804crude20200420151256zq-15874381887451894034346-crop-15874382486091098640127

 

COVID-19 đã khiến xã hội phải giãn cách, đóng cửa các nhà máy và ngăn mọi người đi du lịch. Nền kinh tế toàn cầu đang suy giảm.

Đại dịch cũng đã làm giảm nhu cầu dầu trên toàn cầu khoảng 29 triệu thùng/ngày (so với khoảng 100 triệu thùng/ngày vào năm 2019. OPEC và các nhà sản xuất khác đã đồng ý cắt giảm sản lượng 9,7 triệu thùng mỗi ngày. Song sự giảm cung đó vẫn chậm hơn giảm cầu, dẫn đến việc thặng dư dầu lớn trên thị trường và không có người mua.

Khả năng lưu trữ dầu đã hao đi nhanh chóng. Nhiều quốc gia nhập khẩu dầu đang lưu trữ số lượng lớn dầu, tận dụng giá rẻ để "ôm" dầu.

Một số nhà sản xuất dầu, với hy vọng duy trì thị phần của họ, đã thực hiện việc lưu trữ dầu dư thừa trên biển, thuê tàu chở dầu với chi phí cao. Một số người được cho là đang trả hơn 100.000 USD mỗi ngày cho mỗi tàu chở dầu.

Vì vậy, làm thế nào mà giá dầu ở Alberta, và thậm chí giá tương lai cho West Texas Middle (WTI) có thể âm?

Nó bắt đầu với dự báo giảm cho WTI - dầu sẽ được giao dịch trong một vài tháng với giá hôm nay. Nó đã giảm 6 USD/thùng vào thứ Hai, chạm ngưỡng 11,66 USD, nhưng cuối ngày đã rơi xuống - 37 USD khi những người mua đã đồng loạt bán ra trước khi dầu thực sự được giao mà không có nơi nào để lưu trữ .

Nhưng dầu của Alberta, chủ yếu có nguồn gốc từ dầu mỏ (được gọi là Western Select), thường được bán ở mức thấp hơn 10 - 15 USD so với giá của WTI, bởi vì nó phải được khai thác từ địa hình đá sâu. Điều đó làm cho việc tinh luyện trở nên khó khăn hơn và nó cũng phải được vận chuyển hàng ngàn km đến các nhà máy lọc dầu của Mỹ.

photo-1-1587436818148275121692

 

Và do đó, giá dầu ở Alberta đã âm, vì giá chuẩn hiện nay thấp hơn chi phí sản xuất, vận chuyển và lưu trữ.

Tình trạng này không thể kéo dài. Các nhà sản xuất, trong ngắn hạn, có thể chấp nhận giá dưới mức chi phí biến đổi của họ miễn là họ có thể trả một số chi phí cố định.

Thời gian trôi qua, càng ngày sẽ càng nhiều giàn khoan ngừng hoạt động (về mặt kỹ thuật, một số ít sẽ được duy trì hoạt động để tránh bị xâm phạm) và một sự cân bằng mới giữa cung và cầu sẽ được thiết lập với giá vượt tổng chi phí trung bình. Nhưng điều này không tốt cho cả Alberta và Hoa Kỳ.

Dầu mỏ của Alberta hiện là thiệt hại của cuộc chiến dầu giữa Nga và Ả Rập Saudi, với COVID-19 làm nghiêm trọng thêm tình hình đó. Một trong hai yếu tố này có thể đã làm gián đoạn sản xuất dầu của Alberta. Nhưng sự thù địch giữa Nga và Ả Rập Saudi kết hợp với đại dịch toàn cầu đã được chứng minh là thảm họa đối với Canada và ngành năng lượng Mỹ có thể có kết cục tương tự.

Nga và Ả Rập Saudi phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ dầu mỏ để duy trì nền kinh tế của họ. Tất nhiên, nền kinh tế của Ả Rập Saudi kém đa dạng hơn nền kinh tế Nga , nhưng cả hai đều có doanh thu từ dầu mỏ chiếm tỷ trọng rất cao trong GDP của họ (Ả Rập Saudi khoảng 50% , Nga 38,9%), cũng như trong ngân sách (Ả Rập Saudi 87% và Nga 68%) và xuất khẩu (Ả Rập Saudi 90% và Nga 59%). Thật khó để tin rằng một trong hai quốc gia này có thể làm gì với mức giá thấp như vậy.

Nga cần mức giá 60 USD/thùng để cân bằng ngân sách chính phủ và thậm chí là mức giá cao hơn để cân bằng cán cân xuất nhập khẩu hiện tại.

Ả Rập Saudi, vẫn là nhà sản xuất dầu có chi phí thấp nhất trên thế giới, chỉ có thể kiếm tiền khi giá mỗi thùng trên 20 USD. Nga thì phải là mức giá 40 USD.

Nhưng như thế vẫn là chưa đủ. Ả Rập Saudi cần mức giá 80 USD/thùng để cân bằng ngân sách, hiện thực hóa các kế hoạch đa dạng hóa nền kinh tế và duy trì dòng trợ cấp cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự cân bằng còn đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định hệ thống chính trị Nga và Ả Rập Saudi.

(Theo Trí thức trẻ)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ