Sau hai năm ‘tay ngang’ trong nông nghiệp, Hòa Phát có gì?

Nhàđầutư
Từ năm 2015, Công ty CP Tập đoàn Hòa Phát (mã HPG) đã đầu tư vào mảng nông nghiệp….
BẢO NGỌC
27, Tháng 03, 2018 | 07:13

Nhàđầutư
Từ năm 2015, Công ty CP Tập đoàn Hòa Phát (mã HPG) đã đầu tư vào mảng nông nghiệp….

nhadautu - mang nong nghiep cua Hoa Phat

 Sau hai năm ‘tay ngang’ trong nông nghiệp, Hòa Phát có gì?

Từ tháng 3/2015, HPG đã chính thức đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp bằng việc thành lập Công ty TNHH MTV Thương Mại & Sản xuất thức ăn Chăn nuôi Hòa Phát (quản lý bởi Công ty CP Phát triển nông nghiệp Hòa Phát với vốn điều lệ 2.500 tỷ đồng).

Được biết, HPG đã dùng 3 triệu cổ phiếu của Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc HPG là ông Trần Đình Long để đảm bảo cho Thức ăn Chăn nuôi Hòa Phát vay vốn tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) – Chi nhánh Thành Công với hạn mức vay là 600 tỷ đồng nhằm mục đích bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Giá trị tài sản đảm bảo là 60 tỷ đồng.

Trong năm đầu tiên bước chân vào nông nghiệp, HPG tập trung vào mảng sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi và chăn nuôi. Trong năm 2015, Tập đoàn HPG ghi nhận có 4 Công ty con trong lĩnh vực nông nghiệp là (1) Công ty TNHH MTV Chăn nuôi Hòa Phát Ninh Bình (2) Công ty TNHH MTV Chăn nuôi Hòa Phát Lạc Thủy (3) Công ty  TNHH MTV Chăn nuôi Hòa Phát Bắc Giang và (4) Công ty TNHH MTV Chăn nuôi Hòa Phát Lạng Sơn.

Trong năm 2015, mảng nông nghiệp ghi nhận tổng doanh thu đạt hơn 1,3 tỷ đồng. Tuy nhiên, Tập đoàn lại ghi nhận lỗ sau thuế hơn 46,2 tỷ đồng.

Trải qua 3 năm phát triển trong mảng nông nghiệp của, Tập đoàn đã ghi nhận những tiến triển tốt.

Hiện tại, mảng nông nghiệp của Tập đoàn bao gồm các mặt hàng: Chăn nuôi heo, gà và thức ăn gia súc.

Được biết, HPG đã đầu tư 2 nhà máy thức ăn chăn nuôi đặt tại Hưng Yên và Đồng Nai với công suất 300.000 tấn/năm. Trong năm 2017, giá thịt heo xuống thấp gây nhiều ảnh hưởng xấu đến các trạm chăn nuôi. ‘Tuy vậy, HPG vẫn đảm bảo lộ trình xây dựng nông nghiệp quy mô lớn và công nghệ cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm’, ông Trần Đình Long cho biết tại ĐHĐCĐ thường niên 2018 vừa qua.

Về lĩnh vực Gà đẻ trứng, HPG nhập giống từ nước ngoài về được hai đợt. Được biết, đợt đầu tiên đã có kết quả qua trạm ấp để nuôi gà đẻ trứng thương phẩm.

Nguồn cung trứng của Tập đoàn đến từ 2 trại gà đẻ thương phẩm với quy mô 600.000 con gà mái đẻ/năm tại Đồng Nai và Phú Thọ. Ngoài ra, HPG cũng có một trang trại gà tại Phú Thọ với quy mô 22.000 – 25.000 con.

Trong năm 2018, HPG dự kiến có 20 triệu trứng gà thương phẩm. Tuy mức đề ra này kém hơn sản lượng 100 triệu quả của Dabaco trong năm 2017, nhưng cũng được coi là tín hiệu tích cực khi HPG là ‘tay ngang’ trong mảng nông nghiệp.

Tầm nhìn đến năm 2020, Tập đoàn dự kiến nâng sản lượng trứng gà thương phẩm lên 300 triệu trứng.

Ở mảng chăn nuôi heo, lứa heo 3 thương phẩm đầu tiên của HPG chuẩn bị ra thị trường. Trong khi đó, mảng sản phẩm thức ăn chăn nuôi của doanh nghiệp trong năm 2018 dự kiến tăng 30% so với năm 2017.

Tập đoàn dự kiến trong 5 năm tới sẽ đạt 1 triệu tấn thức ăn chăn nuôi/năm, 450.000 đầu heo thương phẩm/năm, 75.000 bò thịt/năm và 300 triệu trứng gà sạch/năm.

Từ mức lỗ trong năm 2015, mảng nông nghiệp đã có trái ngọt cho Tập đoàn bất chấp các khó khăn của ngành Nông nghiệp 2017 nói chung.

Năm 2017 ghi nhận tổng doanh thu mảng nông nghiệp HPG đạt 3.073 tỷ đồng, tăng 70,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, LNST hơn 47,4 tỷ đồng, tăng 70,5% so với năm 2016. Tuy vậy, tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của mảng nông nghiệp vẫn ở mức khá thấp khi đóng góp lần lượt là 6% và 1%.

Tính riêng mảng tiêu thụ thức ăn chăn nuôi, sản lượng của HPG tăng 140% so với năm 2016.

Doanh nghiệp cho biết sẽ tiếp tục đầu tư vào mảng nông nghiệp, nhưng không tăng quy mô vốn đầu tư trong 3-5 năm nữa.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ