'Phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ sinh học có vai trò then chốt với nền nông nghiệp trong tương lai'

Nhàđầutư
Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, tương lai nền nông nghiệp Việt Nam sẽ từng bước chuyển đổi theo hướng chất lượng, giá trị gia tăng cao theo chuỗi bền vững, từng bước hạn chế chạy theo số lượng và xuất khẩu thô nên vai trò của ngành nông nghiệp hữu cơ.
HÀ MY
28, Tháng 08, 2019 | 12:25

Nhàđầutư
Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, tương lai nền nông nghiệp Việt Nam sẽ từng bước chuyển đổi theo hướng chất lượng, giá trị gia tăng cao theo chuỗi bền vững, từng bước hạn chế chạy theo số lượng và xuất khẩu thô nên vai trò của ngành nông nghiệp hữu cơ.

Theo số liệu của Bộ NN&PTNT công bố, hiện cả nước có 265 nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ, chiếm 31,6% trong 838 nhà máy sản xuất phân bón và tăng gần 1,47 lần so với số lượng 180 nhà máy năm 2017.

1550373242548

Bộ NN&PTNT đề ra mục tiêu về sản xuất, tiêu thụ phân bón hữu cơ trong nước đạt 3 triệu tấn và xuất khẩu 0,5 triệu tấn vào năm 2020

Tính đến tháng 6/2019, số lượng phân bón hữu cơ được công nhận lưu hành ở Việt Nam là 2.487 sản phẩm, tăng lên 3,5 lần so thời điểm tháng 12/2017, tăng nhanh hơn so với số lượng phân bón vô cơ được công nhận ở cùng thời điểm.

Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2019 đạt 1,2 triệu tấn, cao hơn 200 nghìn tấn so với tổng sản lượng sản xuất cả năm 2017.

Phát biểu tại hội nghị "Thúc đẩy sản xuất, sử dụng và nâng cao chất lượng phân bón hữu cơ" sáng 28/8, Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh:"Trong thời gian tới, sản xuất nông nghiệp phải tập trung vào chất lượng, không đặt nặng vấn đề số lượng. Việt Nam đã, đang và sẽ phấn đấu xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại thông minh trong đó nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ là xu hướng bắt buộc để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nông sản của người tiêu dùng. Đây chính là yếu tố giúp nông sản Việt Nam tăng tính cạnh tranh trên thị trường, gia tăng giá trị nông sản".

Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, hưởng ứng lời kêu gọi của Bộ NN&PTNT và Chính phủ tại hội nghị phát triển phân bón hữu cơ tháng 3/2018, thời gian qua rất nhiều doanh nghiệp lớn đã hợp tác với nhiều địa phương trên cả nước để đầu tư sản xuất nông nghiệp hữu cơ có hiệu quả như: Tập đoàn Quế Lâm, Tập đoàn Lộc Trời, Sông Gianh, T&T 159,...

Trong đó, chuyển giao cho các hộ nông dân quy trình tái sử dụng phụ phẩm trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày làm phân bón hữu cơ tại chỗ.

Nhiều nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ được đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, quy mô lớn, cho phép tạo ra các loại phân bón hữu cơ chất lượng tốt, ổn định, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn nguyên liệu sẵn có như chất thải hữu cơ từ chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, công nghiệp chế biến, rác thải sinh hoạt và các chất hữu cơ trong tự nhiên (rong biển, tảo biển...).

Sản lượng phân bón hữu cơ sản xuất ra đã tăng lên rõ rệt, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2019 đạt 1,19 triệu tấn. Tuy nhiên, số lượng và sản phẩm phân bón hữu cơ nhìn chung vẫn còn khiêm tốn so với phân bón vô cơ (11,6 % so với 86,9%).

Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, tương lai nền nông nghiệp Việt Nam sẽ từng bước chuyển đổi theo hướng chất lượng, giá trị gia tăng cao theo chuỗi bền vững, từng bước hạn chế chạy theo số lượng và xuất khẩu thô nên vai trò của ngành nông nghiệp hữu cơ. Phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ sinh học đóng vai trò then chốt với nền nông nghiệp Việt Nam trong tương lai.

Theo Bộ NN&PTNT, để thực hiện mục tiêu về sản xuất, tiêu thụ phân bón hữu cơ trong nước đạt 3 triệu tấn và xuất khẩu 0,5 triệu tấn vào năm 2020, cần đẩy mạnh sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ.

Như vậy sẽ vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa nâng cao chất lượng nông sản, đồng thời, phục hồi dần hệ sinh thái bị ảnh hưởng bởi lạm dụng phân bón hoá học, tiến tới xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp sạch, chất lượng cao, hiệu quả và bền vững.

 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25180.00 25185.00 25485.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30846.00 31032.00 32001.00
HKD 3185.00 3198.00 3302.00
CHF 27415.00 27525.00 28378.00
JPY 160.64 161.29 168.67
AUD 16085.00 16150.00 16648.00
SGD 18346.00 18420.00 18964.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18198.00 18271.00 18809.00
NZD   14807.00 15308.00
KRW   17.63 19.26
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2290.00 2378.00
NOK   2269.00 2358.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ