Công cuộc phục hồi thị trường lao động toàn cầu gặp khó

Nhàđầutư
Theo một báo cáo mới của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), những cuộc khủng hoảng đang diễn ra trên toàn cầu khiến công cuộc phục hồi thị trường lao động toàn cầu suy giảm rõ rệt.
NGUYỄN HƯƠNG
26, Tháng 05, 2022 | 05:50

Nhàđầutư
Theo một báo cáo mới của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), những cuộc khủng hoảng đang diễn ra trên toàn cầu khiến công cuộc phục hồi thị trường lao động toàn cầu suy giảm rõ rệt.

ttld

Công cuộc phục hồi thị trường lao động toàn cầu suy giảm rõ rệt. Ảnh: T. Hằng.

Theo ILO, sau khi đạt được những thành tựu đáng kể trong quý IV năm 2021, số giờ làm việc trên toàn cầu của quý I năm 2022 đã giảm xuống, thấp hơn 3,8% so với mức trước khủng hoảng (quý IV năm 2019). Con số này tương đương với mức thâm hụt 112 triệu việc làm toàn thời gian.

Báo cáo cũng cho thấy sự khác biệt lớn và ngày càng tăng giữa các nền kinh tế giàu hơn và nghèo hơn. Các nước thu nhập cao ghi nhận sự phục hồi về số giờ làm việc trong quý đầu năm 2022. Trong cùng thời kỳ, các nền kinh tế có thu nhập thấp và trung bình thấp hơn lại phải đối mặt với nhiều trở ngại, với tổng số giờ làm việc vẫn thấp hơn mức tiền khủng hoảng lần lượt là 3,6% và 5,7%. Những xu hướng cách biệt này có thể sẽ còn xấu đi trong quý 2 năm 2022.

Theo khảo sát của ILO, những cuộc khủng hoảng toàn cầu mới và có tác động qua lại với nhau, bao gồm lạm phát (đặc biệt là giá năng lượng và thực phẩm), bất ổn tài chính, nguy cơ vỡ nợ và gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu trở nên trầm trọng hơn do chiến tranh ở Ukraine.

IOL đánh giá điều này đồng nghĩa với việc thời giờ làm việc đứng trước nguy cơ giảm sâu hơn nữa trong năm 2022, cũng như để lại những tác động lớn hơn đối với thị trường lao động toàn cầu trong những tháng tới.  

Khảo sát của ILO cho thấy, ở một số nước đang phát triển, các chính phủ ngày càng gặp khó do thiếu không gian tài khóa và những thách thức về tính bền vững của các khoản nợ, trong khi các doanh nghiệp phải đối mặt với những bất ổn kinh tế, tài chính, còn người lao động vẫn không được tiếp cận đầy đủ các chế độ an sinh xã hội.

Hơn hai năm kể từ khi đại dịch bùng phát, nhiều người trong thế giới việc làm vẫn đang phải hứng chịu những tác động đối với thị trường lao động.

ILO khảo sát thấy rằng, thu nhập từ lao động vẫn chưa phục hồi đối với đa số người lao động. Năm 2021, khoảng ba phần năm số người lao động sinh sống ở các quốc gia mà thu nhập từ lao động chưa được khôi phục lại mức từng ghi nhận trong quý 4 năm 2019.

Khoảng cách giới trong số giờ làm việc cũng gia tăng trong thời kỳ đại dịch. Trong quý I năm 2022, khoảng cách giới trong số giờ làm việc toàn cầu là 0,7 điểm phần trăm, cao hơn so với mức trước khủng hoảng (quý 4 năm 2019), thời điểm vốn đã tồn tại một khoảng cách lớn giữa nam giới và phụ nữ. Phụ nữ làm công việc không chính thức bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Xét theo nhóm thu nhập, các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình ghi nhận mức gia tăng lớn nhất trong khoảng cách giới.

Số lượng công việc cần tuyển người tăng vọt tại các nền kinh tế tiên tiến tại thời điểm cuối năm 2021 và đầu năm 2022 khiến thị trường lao động bị siết chặt với tình trạng số lượng vị trí cần tuyển tăng cao hơn so với số người tìm việc. Nhưng nhìn chung, không có bằng chứng chắc chắn nào cho thấy thị trường lao động đang phát triển quá nóng, bởi số lượng lao động thất nghiệp và lao động không được tận dụng đầy đủ tiềm năng vẫn ở mức đáng kể tại nhiều quốc gia.

Cuộc khủng hoảng Ukraine đã làm trầm trọng những đứt gẫy trong sản xuất và thương mại, dẫn đến giá lương thực và hàng hóa tăng cao, ảnh hưởng nặng nề đến các hộ gia đình nghèo và doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là những đối tượng thuộc khu vực kinh tế phi chính thức.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ