50% doanh số bán hàng toàn cầu 2030 của Nissan đến từ xe điện, xe lai

Nhàđầutư
Xe điện và xe lai sẽ chiếm một nửa doanh số bán hàng toàn cầu của Nissan vào năm 2030, và hãng ô tô Nhật Bản sẽ tăng hơn 30% tiền đầu tư vào công nghệ trong thập kỷ tới để đạt được mục tiêu này.
KIM NGÂN
27, Tháng 11, 2021 | 10:56

Nhàđầutư
Xe điện và xe lai sẽ chiếm một nửa doanh số bán hàng toàn cầu của Nissan vào năm 2030, và hãng ô tô Nhật Bản sẽ tăng hơn 30% tiền đầu tư vào công nghệ trong thập kỷ tới để đạt được mục tiêu này.

NIsan

Xe điện Leaf của Nissan được trưng bày tại triển lãm ô tô. Ảnh: Reuters

Nissan đặt mục tiêu xe điện sẽ chiếm 50% doanh số bán xe ở Trung Quốc và 80% ở châu Âu vào cuối thập kỷ này, theo Nikkei Asia. Động thái này diễn ra khi các đối thủ trên thế giới đang gấp rút đầu tư phát triển xe điện.

Mặc dù Nissan là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực xe điện, doanh số bán loại xe này của hãng rất khiêm tốn so với các công ty như Tesla. Vì vậy, Nissan muốn đẩy nhanh doanh số bán các loại xe thân thiện với môi trường bằng cách mở rộng đầu tư.

Xe điện và xe lai (xăng-điện) chiếm khoảng 10% doanh số bán xe hơi toàn cầu của Nissan năm ngoái. Con số ở Trung Quốc là 2% và ở châu Âu là 10%. Nissan muốn nâng con số ở hai thị trường trên trong bối cảnh những nơi này đưa ra các yêu cầu chặt chẽ hơn về môi trường.

Trung Quốc là thị trường lớn nhất của Nissan, nơi hãng đã bán được 1,45 triệu xe trong năm tài chính 2020. Cùng kỳ, Nissan bán được 390.000 xe tại châu Âu. Hai thị trường này cộng lại chiếm một nửa doanh số bán xe toàn cầu của Nissan.

Các kế hoạch của hãng nằm trong tầm nhìn dài hạn sẽ được công bố vào thứ Hai tới.

Nhà máy duy nhất của Nissan ở châu Âu, đặt tại Anh, sẽ chuyển sang sản xuất xe điện và xe lai. Hãng cũng sẽ chi nhiều hơn để tăng tốc sản xuất xe điện. Nissan đã đầu tư khoảng 3 nghìn tỷ yên (26 tỷ USD) trong 10 năm tính đến năm tài chính 2020. Hãng đặt mục tiêu tăng con số thêm hơn 30% cho 10 năm tới, Nikkei Asia đưa tin.

Khoản chi này sẽ được sử dụng để tăng cường sản xuất pin và phát triển các mẫu xe mới. Nissan có kế hoạch tung ra thêm 10 mẫu xe điện vào năm tài chính 2026, bổ sung nhóm 5 mẫu xe điện hiện có, trong đó có Leaf.

Để hạ giá xe điện xuống ngang bằng với xe chạy xăng, Nissan sẽ làm việc với các đối tác Renault và Mitsubishi Motors để mua pin, bộ phận chiếm 30-40% tổng chi phí sản xuất cho một chiếc xe điện.

Tháng 1, Nissan thông báo tất cả các mẫu xe mới của hãng tại những thị trường chính vào đầu thập kỷ tới là xe điện. Hãng này cho rằng xe chạy xăng thông thường sẽ vẫn chiếm tỷ trọng cao trong doanh số bán xe mới ở Nhật Bản và Mỹ năm 2030.

Các nhà sản xuất ô tô đang gấp rút đầu tư nhiều hơn vào xe điện trong bối cảnh toàn cầu thúc đẩy quá trình khử cacbon. Toyota Motor sẽ đầu tư 1,5 nghìn tỷ yên (hơn 13 tỷ USD) vào sản xuất pin và đặt mục tiêu bán 2 triệu chiếc xe điện và xe chạy bằng pin nhiên liệu trên toàn cầu vào năm 2030.

Volkswagen sẽ đầu tư 35 tỷ euro (39 tỷ USD) đến năm 2025 để có 50% doanh số bán xe mới trên toàn cầu đến từ xe điện vào năm 2030. Daimler (Đức), General Motors (Mỹ) và Honda Motor (Nhật Bản) đang có kế hoạch ngừng bán xe động cơ đốt trong, trong đó có xe lai.

Tháng 7 vừa qua, Daimler cho biết thương hiệu Mercedes-Benz của hãng “sẵn sàng” sản xuất 100% ô tô điện vào năm 2030, “khi điều kiện thị trường cho phép”.  

Các hãng ô tô Trung Quốc cũng đang đẩy nhanh việc tung ra thị trường các loại xe điện giá rẻ và thiết lập sự hiện diện ở Trung Quốc và châu Âu.

Theo công ty tư vấn Alix Partners của Mỹ, xe điện chiếm 11% tổng doanh số bán ô tô mới toàn cầu năm 2020. Tỷ lệ này được dự báo sẽ tăng lên 61% vào năm 2030. Alix Partners ước tính ô tô điện sẽ chiếm 90% doanh số bán ô tô mới ở Châu Âu, và 70% ở Trung Quốc và Nhật Bản vào năm 2030.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ