Thị trường chứng khoán tuần (29/10 – 2/11): Kiên nhẫn đã hết?

Nhàđầutư
Xu hướng thị trường giảm điểm dài hạn đang dần hiện hữu….
HÓA KHOA
28, Tháng 10, 2018 | 12:06

Nhàđầutư
Xu hướng thị trường giảm điểm dài hạn đang dần hiện hữu….

nhadautu - TTCK giam diem

 

Chốt phiên giao dịch 26/10, VN-Index đạt 900,82 điểm, giảm 5,17% so với mức mở cửa đầu tuần giao dịch. Thanh khoản tuần bình quân tuần giao dịch (22/10-26/10) đạt gần 166 triệu đơn vị, tương đương tổng giá trị 3.952 tỷ đồng. So với tuần giao dịch trước đó, KLGD và GTGD đã tăng lần lượt 7,6% và 11,8%.

Việc dòng tiền bắt đáy gia nhập thị trường ở hai phiên 23/10 và 25/10 đã khiến thanh khoản bình quân chỉ số chuẩn tăng mạnh. Tuy vậy, áp lực chốt lời T+3 trở nên rõ ràng khi tâm lý nhà đầu tư khó kỳ vọng về sự tăng trưởng của thị trường trong dài hạn. Tâm lý bi quan của nhà đầu tư không phải không có cơ sở khi chỉ số chuẩn đã giảm trong 7 phiên liên tiếp.

Nếu xét cụ thể trong phiên giao dịch cuối tuần, mở cửa ở mức 918 điểm, VN-Index gần như ngay lập tức chịu áp lực chốt lời rất mạnh để rồi đảo chiều thành giảm 9,35 điểm. Độ rộng hoàn toàn nghiêng về bên bán với 244 mã giảm và 181 mã tăng.

Trong tuần qua, thống kê từ Công ty CP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho thấy có 449 doanh nghiệp niêm yết trên HSX, HNX và UpCom công bố KQKD 9 tháng đầu năm 2018 (tính đến hết ngày 24/10/2018), trong đó có 388 doanh nghiệp báo lãi, chiếm 86%. Lợi nhuận sau thuế của 449 doanh nghiệp này đạt 70.315 tỷ đồng, tăng 31,1% so với mức 56.615 tỷ đồng của cùng kỳ năm 2017. Đã có 69 doanh nghiệp trong số 449 doanh nghiệp này hoàn thành kế hoạch năm, nổi bật gồm GAS (138,1%), VHC (167,1%), DPM (148,4%), PHR (121,9%)… Theo ngành, các ngành có tỷ trọng vốn hóa lớn như dầu khí, bất động sản hay ngân hàng đều có mức tăng trưởng lợi nhuận cao, lần lượt là 70,1%, 50,5% và 48%.

Tuy nhiên, câu chuyện doanh nghiệp bản chất làm ăn tốt hay xấu không còn tác động tới thị trường một khi dòng tiền đã tháo chạy.

Ở giao dịch của các NĐTNN, khối ngoại trên sàn HOSE tiếp tục bán ròng 420 tỷ đồng, gấp 3 lần so với tuần giao dịch trước, tương đương khối lượng bán ròng là 3,5 triệu cổ phiếu. Như vậy, họ đã bán ròng trong 3 tuần liên tiếp, với tổng giá trị 1.166 tỷ đồng. Trong khi đó, khối ngoại sàn lại 75,6 tỷ đồng sau 6 tuần bán ròng liên tiếp, tương ứng khối lượng mua ròng 3,8 triệu cổ phiếu. Với sàn UpCom, khối này bán ròng hơn 117 tỷ đồng (tăng 81,5%) so với tuần giao dịch trước đó, tương đương khối lượng bán ròng là 2 triệu cổ phiếu.

Ông Vũ Minh Đức – Trưởng phòng cao cấp Công ty CP Chứng khoán Bản Việt (VCSC) nhận định,”Với lập luận áp lực bán đã phần nào cho thấy sự suy yếu, chúng tôi kỳ vọng thị trường, với đại diện là VN-Index sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của lực cầu thúc thúc đẩy bởi vùng hỗ trợ 890 điểm trong nhịp giảm điểm đầu tuần tới để có thể chốt phiên với mức tăng. Với kịch bản này, chỉ số sàn HOSE có thể sẽ tích lũy và dao động trong biên độ từ 890-930 điểm trong khoảng 5-10 phiên giao dịch tới. Ngược lại, nếu ngưỡng hỗ trợ 890 điểm bị phá vỡ, một xu hướng giảm dài hạn nhiều khả năng sẽ được thiết lập”.

Một số bản tin của các công ty chứng khoán khác cũng tỏ ra bi quan. Công ty CP Chứng khoán Bảo Việt đánh giá,”Trong các phiên tới, VN-Index có thể sẽ phá vỡ vùng đáy cũ quanh 885 và lùi về vùng hỗ trợ tiếp theo nằm tại 860-870 điểm.”

Công ty CP Chứng khoán FPT tiếp tục tỏ ra tiêu cực khi nhận định dòng tiền cầu của VN-Index tại vùng hỗ trợ 890 – 900 điểm mới chỉ mang ý nghĩa khu vực tạm ngưng tâm lý bán chứ chưa phải là vùng hỗ trợ thu hút được lực cầu thực sự tích cực. Cùng với đó, tâm lý e ngại của nhà đầu tư về các yếu tố gây bất lợi tới thị trường chưa được cải thiện thì rủi ro VN-Index tái diễn những biến động sụt giảm mạnh vẫn ở mức cao.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24620.00 24940.00
EUR 26373.00 26479.00 27646.00
GBP 30747.00 30933.00 31883.00
HKD 3106.00 3118.00 3220.00
CHF 27080.00 27189.00 28038.00
JPY 159.61 160.25 167.69
AUD 15992.00 16056.00 16544.00
SGD 18111.00 18184.00 18724.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17987.00 18059.00 18594.00
NZD   14750.00 15241.00
KRW   17.82 19.46
DKK   3544.00 3676.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ