Hơn 18.000 doanh nghiệp thành lập mới trong 2 tháng

Nhàđầutư
Trong 02 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp thành lập mới là 18.129 doanh nghiệp, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2020.
MY ANH
26, Tháng 02, 2021 | 13:29

Nhàđầutư
Trong 02 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp thành lập mới là 18.129 doanh nghiệp, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2020.

dang-ky-doanh-nghiep-1588

 

Theo thông tin từ Bộ KHĐT, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng 02 năm 2021 là 8.038 doanh nghiệp và số vốn đăng ký là 179.737 tỷ đồng, giảm 12,3% và tăng 85,6% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2020.

Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 2 tháng đầu năm 2021 là 720.407 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong 2 tháng đầu năm 2021 đạt 18,5 tỷ đồng, tăng 46,4% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính chung 02 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp thành lập mới là 18.129 doanh nghiệp, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 11.033 doanh nghiệp, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm 2020.

Số doanh nghiệp quay lại hoạt động trong 2 tháng đầu năm 2021 giảm ở 12/17 lĩnh vực, trong đó, chủ yếu là các ngành nghề chịu nhiều ảnh hưởng của dịch COVID-19 như nghệ thuật, vui chơi và giải trí; Giáo dục và đào tạo; Dịch vụ lưu trú và ăn uống; Bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy... 

Dịch COVID-19 diễn biến phức tạp khiến số lượng doanh nghiệp rút khỏi thị trường cũng tăng mạnh. Trong 2 tháng đầu năm 2021, có 33.611 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2020. Bao gồm 21.636 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, 8.380 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ giải thể, 3.595 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể.

16/17 ngành kinh doanh chính có số lượng doanh nghiệp giải thể tăng. Các lĩnh vực có tỷ lệ doanh nghiệp giải thể tăng cao so với cùng kỳ năm 2020 là Sản xuất phân phối, điện, nước, gas; Vận tải kho bãi và Khai khoáng với tỷ lệ tăng lần lượt là 220%; 53,2% và 50%.

Trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 tại một số tỉnh, thành phố trên cả nước, mới đây, Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ đã trao đổi nhanh với đại diện một số hiệp hội doanh nghiệp các ngành sản xuất và logistics để nắm bắt những khó khăn các doanh nghiệp đang phải đối mặt. 

Phần lớn các hiệp hội đều phản ánh, trải qua các đợt bùng phát dịch tại Việt Nam, các doanh nghiệp đã xác định tinh thần “sống chung với lũ” và chủ động hơn để đồng hành cùng Chính phủ trên mặt trận chống dịch. Hiện nay, các doanh nghiệp phía Bắc đang chịu ảnh hưởng nặng nề và trực tiếp hơn; các doanh nghiệp ở phía Nam hiện không hoặc chưa bị ảnh hưởng nhiều.

Một số khó khăn được doanh nghiệp phản ánh như lao động có tâm lý ngại di chuyển và quay lại làm việc trong vùng có dịch. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong thu hút lao động, đặc biệt là sau đợt nghỉ Tết kéo dài. Ảnh hưởng của dịch COVID-19 cũng khiến lĩnh vực vận tải hành khách bị ảnh hưởng khá lớn. Nhiều đội vận tải hành khách chỉ hoạt động 20-30% lượng phương tiện hiện có.

Việc thực hiện giãn cách xã hội, hạn chế đi lại, đóng cửa hàng quán ở các thành phố lớn cũng đã làm suy giảm lượng cầu hàng hóa nông sản nói chung và một số sản phẩm như cà phê, chè, thủy sản... Riêng với các doanh nghiệp xuất khẩu, bên cạnh những ảnh hưởng tức thời nêu trên, khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề thiếu container rỗng.

Các doanh nghiệp đánh giá cao sự đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp từ phía các cơ quan, ban, ngành như Bộ Công Thương, Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), Bộ Giao thông Vận tải... đã tích cực tìm cách tháo gỡ việc thiếu container rỗng cho doanh nghiệp thời gian qua.

Tuy nhiên, doanh nghiệp mong muốn thông tin từ phía cơ quan nhà nước được minh bạch hơn, đồng thời các cơ quan nhà nước cần rà soát để nắm bắt cụ thể số lượng container không chủ đang tồn đọng, đẩy mạnh việc giải phóng các container này, thống kê được cầu về số lượng container để tránh tình trạng một số hãng lợi dụng tăng giá.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ