Gặp nhiều yếu tố bất lợi, gạo xuất khẩu nguy cơ bị 'giảm giá trị'

Nhàđầutư
Giá xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí nhân công…tăng cao chưa từng có nhưng giá gạo xuất khẩu lại đi xuống, đây là một thách thức rất lớn đối với cả chuỗi ngành hàng lúa gạo Việt Nam hiện nay.
AN HÒA
25, Tháng 06, 2022 | 06:29

Nhàđầutư
Giá xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí nhân công…tăng cao chưa từng có nhưng giá gạo xuất khẩu lại đi xuống, đây là một thách thức rất lớn đối với cả chuỗi ngành hàng lúa gạo Việt Nam hiện nay.

xk gao 4

Xuất khẩu gạo đang đối mặt với thách thức: đầu vào tăng, đầu ra giảm. Ảnh TL

Cạnh tranh gay gắt

Một diễn biến khá bất ngờ của thị trường gạo thế giới là trong khi các chi phí đầu vào đều tăng thì trong tuần qua, Thái Lan lại điều chỉnh giảm giá chào bán cho tất cả các loại gạo.

Cụ thể, theo Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), trong ngày 23/6, gạo Thái Lan loại 5% tấm được chào bán với giá 408 USD/tấn, giảm 14 USD so với 3 ngày trước đó. Các loại gạo 25% tấm, 100% tấm của Thái Lan chào bán ngày 23/6 cũng giảm từ 16-40USD/tấn so với 3 ngày trước đó. Với giá chào bán như trên, giá gạo 5% và 25% của Thái Lan đã thấp hơn gạo Việt Nam từ 2-10USD/tấn. Duy chỉ có gạo 100% tấm của Thái Lan  đắt hơn gạo cùng loại của Việt Nam 10USD/tấn.

Cũng theo VFA, diễn biến trong 10 ngày qua, giá gạo Ấn Độ-quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới cũng đang đi ngang, chưa có động thái tăng giá.

Nhận định về thị trường lúa gạo trong những tháng cuối năm 2022, ông Phạm Quang Diệu, Công ty Agromonitor (chuyên gia phân tích thị trường lúa gạo), cho biết, mặt bằng giá gạo năm 2022 có cao hơn năm 2021 nhưng lại thấp hơn năm 2019.

Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng gạo toàn cầu có thể đạt trên 515 triệu tấn, tồn kho gạo thế giới ổn định trên 183 triệu tấn.

Diễn biến thị trường gần đây cho thấy thông tin Ấn Độ tạm dừng xuất khẩu là không chính xác. Trước diễn biến thị trường thiếu vắng nhu cầu mới, trong khi nguồn cung ổn định nên thị trường gạo tháng 6 đang "yên ắng" so với tháng 5.

Tuy nhiên, ông Diệu cũng chấn an các doanh nghiệp xuất khẩu gạo rằng thị trường gạo vẫn còn nhiều "ẩn số" để tăng tốc khi ngành này chưa phải gánh chịu cú sốc từ cuộc chiến Nga-Ukraine do nguồn cung còn dồi dào. Nhưng đứng trước chi phí đẩy từ giá vật tư đầu vào và nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu phụ phẩm từ ngành lúa gạo cho chế biến thức ăn gia súc tăng thì giá gạo rất khó giảm thêm trong thời gian tới.

"Trong thời gian qua giá gạo Thái Lan liên tục được điều chỉnh giảm có thể do quốc gia này đẩy mạnh thanh lý tồn kho và do đồng baht mất giá. Tuy nhiên, đứng trước áp lực giá đẩy của đầu vào thì không chỉ gạo Việt Nam mà gạo Thái Lan cũng sẽ thiết lập mặt bằng giá mới cao hơn là điều khó tránh khỏi", ông Diệu nhận định.

lua HG 11

Diện tích trồng các giống lúa phẩm chất cao, lúa thơm còn hạn chế. Ảnh An Hòa

Làm gì để khơi thông dòng chảy lúa gạo?

Theo ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 5 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đạt 3 triệu tấn, mang về 1,4 tỷ USD cho thấy hàm lượng giá trị xuất khẩu của gạo Việt đã có sự cải thiện.

Tuy nhiên, ông Toản lưu ý khi giá đầu ra rất khó tăng thêm thì giá vật tư đầu vào tăng mạnh đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông dân nên cần có giải pháp ứng phó với thách thức này.

"Hiện nay qui trình sản xuất lúa của bà con nông dân ở nhiều nơi còn lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nên chi phí giá thành cao. Để nâng cao sức cạnh tranh cho hạt gạo thì điều đầu tiên là bà con nông dân phải giảm giá thành sản xuất đến mức thấp nhất có thể. Giải pháp giảm giá thành là phải sử dụng giống xác nhận, giảm lượng giống trong gieo sạ, bón phân cân đối; liên kết trong sản xuất để có thể đưa cơ giới vào sản xuất, giảm chi phí so với sản xuất riêng lẻ của từng nông hộ", ông Toản khuyến cáo.

Cùng quan điểm đó, ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng điểm nghẽn của sản xuất lúa gạo hiện nay là sản lượng không ổn định do không có vùng nguyên liệu quy mô lớn. Do đó để nâng cao giá trị hạt gạo, thì ngành này cần phải hình thành vùng nguyên liệu, sản xuất theo quy trình, giám sát được chất lượng, có như thế mới có thể tiến tới xây dựng hình ảnh thương hiệu cho hạt gạo.

Còn theo ông Phạm Quang Diệu, chuyên gia phân tích thị trường lúa gạo, hiện nay phân khúc gạo thơm của Việt Nam như các dòng gạo ST, Đài thơm 8, OM 18, Jasmine…đang có mức giá rất hấp dẫn nhưng sản lượng còn ít (chiếm khoảng 40%). Với nhu cầu thị trường chuyển mạnh từ "ăn no" sang "ăn ngon" thì việc mở rộng diện tích trồng các giống lúa thơm, phẩm cấp cao là xu hướng tất yếu của ngành lúa gạo trong thời gian tới.

Sau hơn 30 năm "góp gạo" cho "nồi cơm" thế giới, gạo Việt Nam hiện đã có mặt tại trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ với sản lượng xuất khẩu trên dưới 6 triệu tấn gạo/năm, tuy nhiên, hầu hết gạo xuất khẩu của Việt nam chỉ là gạo trắng thường, giá trị gia tăng thấp.

Ở một góc nhìn khác, bà Đỗ Thu Hường, Phó Giám đốc Marketing, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, cho rằng trước áp lực về tăng giá xăng, dầu, hạ tầng giao thông còn yếu kém khiến chi phí logistics chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu giá bán sản phẩm cũng làm cho nông sản nói chung, mặt hàng gạo của Việt Nam nói riêng đang yếu sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế.

"Theo thống kê, chi phí logistics bình quân của Việt Nam chiếm gần 17% giá trị hàng hóa, trong khi thế giới chỉ hơn 10%. Đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long do 80% lượng hàng xuất khẩu phải vận chuyển bằng đường bộ lên TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu đã làm chi phí vận chuyển tăng cao, chi phí logistics chiếm đến 30% giá thành. Vì vậy, cần nhanh chóng hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông cho khu vực trọng điểm sản xuất, xuất khẩu nông sản này", bà Hường đề xuất.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ