Dù ‘lao dốc’ mạnh, P/E VN-Index chưa rẻ hơn nhiều so với các thị trường trong khu vực

Nhàđầutư
Báo cáo phân tích từ SSI Research cho biết, định giá P/E của thị trường đã giảm xuống 17.2x, tương đương thời điểm trước sóng tăng mạnh kéo dài 6 tháng từ tháng 10/2017. Tuy nhiên, mức định giá này vẫn khá cao so với lịch sử 5 năm gần đây.
HÓA KHOA
19, Tháng 07, 2018 | 11:05

Nhàđầutư
Báo cáo phân tích từ SSI Research cho biết, định giá P/E của thị trường đã giảm xuống 17.2x, tương đương thời điểm trước sóng tăng mạnh kéo dài 6 tháng từ tháng 10/2017. Tuy nhiên, mức định giá này vẫn khá cao so với lịch sử 5 năm gần đây.

pe TTCK Vietnam van cao hon cac nuoc khac trong khu vuc

 

SSI Research đánh giá, thị trường chứng khoán tháng 6 và đầu tháng 7 tiếp tục nối dài xu hướng giảm tạo ra chuỗi giảm mạnh nhất trong nhiều năm. Sau khi chạm ngưỡng hỗ trợ mạnh 920-930 và phục hồi nhẹ vào đầu tháng 6, chỉ số VN-Index tiếp tục giảm sâu phá vỡ ngưỡng 900 điểm, về mức thấp nhất là 893.16 điểm vào phiên ngày 11/7, giảm 25,8% so với mức đỉnh 1204 và giảm 9,3% so với cuối năm 2017.

Thanh khoản tiếp tục ‘èo uột’, cùng với đó tâm lý của nhà đầu tư bị tác động tiêu cực bởi các sự kiện trên thị trường quốc tế như FED tăng lãi suất, căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và các đối tác leo thang khiến cho chỉ số thị trường chưa thể thoát khỏi xu hướng giảm.

image027

 

Thị trường trong nước thiếu vắng thông tin hỗ trợ trong khi MSCI chưa xem xét nâng hạng đối với thị trường Việt Nam khiến cho nhà đầu tư rụt rè trong việc giải ngân, điều này đã được phản ánh qua số liệu thanh khoản thị trường tháng 6. Giá trị giao dịch bình quân hai sàn trong tháng 6 chỉ đạt 5.623 tỷ đồng và tiếp tục giảm xuống 3.911 tỷ đồng trong 2 tuần đầu tháng 7, mức thấp nhất trong 17 tháng.

Tháng 6 cũng là tháng thứ 5 liên tiếp nhà đầu tư nước ngoài duy trì đà bán ròng trên thị trường khớp lệnh, tuy nhiên quy mô bán ròng đã giảm đáng kể so với 2 tháng trước xuống mức 1.800 tỷ đồng. Nếu tính cả giao dịch thỏa thuận thì khối ngoại tiếp tục mua ròng nhẹ 201 tỷ đồng trong tháng. Thị trường tiếp tục bị bán ròng 1.557 tỷ đồng thông qua hình thức khớp lệnh trong hai tuần đầu tháng 7 và chỉ mua ròng 117 tỷ đồng thỏa thuận.

Tính chung từ đầu năm, tổng giá trị mua ròng của khối ngoại là 33.876 tỷ đồng, trong đó khối này mua ròng qua kênh thỏa thuận với giá trị 44.558 tỷ đồng nhưng bán ròng 10.681 tỷ đồng khớp lệnh, tạo áp lực rất lớn lên tâm lý thị trường.

Hiện tại định giá P/E của thị trường đã giảm xuống 17.2x, tương đương thời điểm trước sóng tăng mạnh kéo dài 6 tháng từ tháng 10/2017. Tuy nhiên, mức định giá này vẫn khá cao so với lịch sử 5 năm gần đây. Trong giai đoạn từ 2012-2017, P/E của VN-Index dao động trong khoảng từ 10.3x – 17.4x, với mức trung bình ở 13.8x.

Định giá của thị trường Việt Nam cũng chưa rẻ hơn nhiều so với các thị trường trong khu vực. Không chỉ chứng khoán Việt Nam, trong năm 2018 thị trường chứng khoán Trung Quốc và Thái Lan cũng lao dốc với mức giảm tương ứng là 23% và 13%, đưa P/E của các thị trường này xuống 13.7x và 16.5x. Thị trường Việt Nam đang giao dịch ở định giá tương đương với Malaysia (17.7x) và thấp hơn thị trường Indonesia (20.6x) và Philippines (18.9x).

Song vậy, nhiều chuyên gia đánh giá rất khó để P/E VN-Index giảm về mức 11 lần như các năm về trước. "Điều này bắt nguồn từ các yếu tố vĩ mô của Việt Nam cũng đã có nhiều yếu tố tích cực so với thời điểm trước đây", ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam, cho biết.

Tuy vậy, không loại trừ khả năng tình hình thế giới có thể khiến thị trường giảm sâu hơn. Ông Vũ Xuân Hiệu - Giám đốc Tư vấn đầu tư Công ty Chứng khoán Trí Việt dự đoán thị trường chứng khoán Việt Nam trong 6 tháng cuối năm 2018 sẽ có vùng cân bằng tại 850-900. Khi VN-Index tiến về vùng này thì mức P/E chung của thị trường sẽ quanh 15. Đây là mức P/E khá hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư trung và dài hạn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ