Cổ phiếu Việt Nam sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong quý II/2019

Nhàđầutư
Công ty CP Chứng khoán Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) nhận định, cổ phiếu Việt Nam bước sang quý II/2019 sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp do đã bước qua nửa cuối mùa công bố KQKD và ĐHĐCĐ, đi kèm đó là những rủi ro chưa xác định.
HÓA KHOA
29, Tháng 04, 2019 | 07:14

Nhàđầutư
Công ty CP Chứng khoán Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) nhận định, cổ phiếu Việt Nam bước sang quý II/2019 sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp do đã bước qua nửa cuối mùa công bố KQKD và ĐHĐCĐ, đi kèm đó là những rủi ro chưa xác định.

nhadautu - chi so chung khoan viet nam se linh xinh nhu nam 2018

Cổ phiếu Việt Nam sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong quý II/2019

Trong giai đoạn ba tháng đầu năm 2019, thị trường đã có những cải thiện tích cực so với quý IV/2018 với chỉ số 2 sàn HSX và HNX tăng lần lượt 88,22 điểm (+9,88%) và 3,21 điểm (+3,08%).

Sau giai đoạn ảm đạm của thị trường chứng khoán quý IV/2018, thị trường đã có những cải thiện tích cực trong quý I/2019 với sự hỗ trợ mạnh mẽ của các cổ phiếu trụ. Các mã hỗ trợ thị trường mạnh nhất là VIC (góp 20,13 điểm), VHM (góp 18,53 điểm), VCB (góp 15,5 điểm), GAS (góp 7,97 điểm) và VNM (góp 7,96 điểm). Ở chiều ngược lại, các cổ phiếu đóng góp mạnh nhất vào đà giảm điểm của chỉ số gồm có SAB (giảm 3,56 điểm), NVL (giảm 2,36 điểm), YEG (giảm 1,28 điểm), ROS (giảm 1,16 điểm) và VJC (giảm 0,58 điểm).

Tính đến tháng 3/2019, tất cả nhóm cổ phiếu đều có hiệu suất dương. Nhóm MidCap là nhóm có sự cải thiện hiệu suất mạnh mẽ nhất với 9,22% so với thời điểm đầu năm, theo sau là nhóm Penny (+7,07%), Small Cap (+5,64% ), VN30 (+5,27%) và LargeCap (+4,12%). 3 ngành có mức tăng điểm mạnh nhất là Bất động sản (+18,25%) do VIC, Y tế (+15,49%) do DHG và Ô tô và phụ tùng (+13,76%) do DRC, 3 ngành giảm mạnh nhất gồm Truyền thông (-45,98%) do YEG, Bán lẻ (-5,62%) do MWG và Du lịch & Giải trí (-0,9%) do VJC.

TTCK tăng điểm nhờ vào các thông tin hỗ trợ tích cực về tiến triển đàm phán thương mại và dòng tiền quay lại các thị trường mới nổi, TTCK Việt Nam đã khoảng thời gian hồi phục đáng kể, diễn biến đồng pha với các thị trường mới nổi khác và thị trường châu Á. Đi kèm đó, số liệu về vĩ mô của Việt Nam năm 2019 được dự báo tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn giữ mức khả quan.

Các thông tin trong nước cũng tích cực hỗ trợ thị trường với các chỉ báo kinh tế tiếp tục có sự cải thiện, đặc biệt khi GDP 2018 đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 7 năm. Thêm vào đó, mặt bằng kết quả kinh doanh khả quan của các công ty trong mùa công bố KQKD năm 2018 và kế hoạch kinh doanh năm 2019 cũng là yếu tố duy trì tâm lý hưng phấn của nhà đầu tư.

Nhìn chung, sau quá trình phục hồi vào đầu Quý I/2019, định giá của TTCK Việt Nam vẫn đang ở mức tương đối hợp lý so với khu vực xét trên chỉ số P/E và P/B. Thêm vào đó cần cân nhắc yếu tố tăng trưởng lợi nhuận (EPS) – cao nhất trong khu vực Đông Nam Á (+11% ), tiến độ thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước đầu ngành, khả năng nâng hạng thị trường thì có thể thấy thị trường Việt Nam tương đối hấp dẫn. Tuy nhiên xét trên từng ngành thì mức chiết khấu có sự dao động khác nhau. Các ngành của Việt Nam nếu so sánh với trung vị của nhóm nước Asean là Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan thì hầu như tương đối rẻ hơn về mặt định giá.

nhadautu - bang Pe Pb cua cac nhom nganh ttck vietnam

 

Bước sang Quý II/2019, cổ phiếu Việt Nam được dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp do đã bước qua nửa cuối mùa công bố KQKD và ĐHĐCĐ đi kèm đó là những rủi ro chưa xác định. Cụ thể, BSC đánh giá triển vọng nhiều ngành trong 1-2 năm tới có sự khác biệt lớn do ảnh hưởng bởi các yếu tố Vĩ Mô ở quy mô toàn cầu nói chung và định hướng về chính sách vĩ mô trong nước nói riêng. Điều này sẽ khiến thị trường chứng khoán tiếp tục phân hóa mạnh và biên độ dao động lớn hơn như năm 2018.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ