Cơ hội giải ngân trong tuần giao dịch mới

Nhàđầutư
Thị trường có khả năng điều chỉnh trong ngắn hạn, tuy vậy xu hướng trung - dài hạn vẫn tốt và việc thị trường điều chỉnh tạo ra cơ hội tốt để nhà đầu tư cơ cấu lại danh mục, tìm kiếm cơ hội đầu tư mới.
HUY NGỌC
15, Tháng 01, 2018 | 06:37

Nhàđầutư
Thị trường có khả năng điều chỉnh trong ngắn hạn, tuy vậy xu hướng trung - dài hạn vẫn tốt và việc thị trường điều chỉnh tạo ra cơ hội tốt để nhà đầu tư cơ cấu lại danh mục, tìm kiếm cơ hội đầu tư mới.

Tuần giao dịch 8/1 – 12/1 ghi nhận sự tăng trưởng mạnh của nhóm Ngân hàng và Dầu khí.

Ngay trong phiên giao dịch đầu tuần 8/1, hai nhóm này đã hút tiền rất tốt. Cụ thể, nhóm cổ phiếu Ngân hàng đã dẫn đầu đà tăng của VN-Index với nhiều cổ phiếu tăng tốt như VCB, VPB, MBB.

Ngoài ra, cũng phải kể đến bộ đôi EIB – STB. Đóng cửa phiên giao dịch 11/1/2018, thị giá STB đạt 16.250 đồng/cổ phiếu, mức giá cao nhất đạt được trong 1 năm giao dịch vừa qua. Tương tự với EIB, thị giá mã này đạt 15.000 đồng/cổ phiếu. Đây cũng là mức giá cao nhất trong một năm giao dịch của EIB.

Nguyên nhân bộ đôi này tăng giá mạnh đến từ thông tin nợ xấu tại Sacombank được xử lý nhanh hơn kỳ vọng.

Cùng với đó, diễn biến tích cực từ giá dầu cũng khiến các cổ phiếu thuộc nhóm cổ phiếu Dầu khí tăng mạnh như PVS, PVD, PVB.

Tuy vậy, phiên giao dịch 12/1 ghi nhận áp lực chốt lời mạnh ở 2 nhóm cổ phiếu này. Gây ảnh hưởng nặng nề nhất đến chỉ số là nhóm Ngân hàng VCB (-1,4%), VPB (-3,4%), STB (-4,6%), EIB (-2,3%); nhóm Dầu khí cũng giảm mạnh với PVD (-1,4%), GAS (-2,6%), PLX (-1,7%). Diễn biến tương tự của nhóm Dầu khí trên HNX cũng khiến chỉ số sàn này lao dốc: PVS (-3,2%), PVB (-4,4%), PVC (-5,7%).

Ông Đỗ Bảo Ngọc - Chuyên gia nghiên cứu cao cấp, Công ty chứng khoán Quân đội nhận định, “Trong ngắn hạn, hai nhóm này có thể tiếp tục chịu áp lực chốt lời do đã tăng quá mạnh thời gian qua”.

Tuy vậy, ông đánh giá kịch bản khả năng thiên về sự giằng co và điều chỉnh, mức độ điều chỉnh sẽ không quá lớn khi tuần giao dịch tới tiến sát ngày 20/1 là thời điểm doanh nghiệp công bố kết quả báo cáo kinh doanh, đặc biệt là dòng Ngân hàng.

Nhóm Dầu khí cũng có nhiều mã công bố kết quả kinh doanh khả quan (như PVS lợi nhuận trước thuế đạt 1.000 tỷ đồng, vượt 43% kế hoạch năm; PVD lợi nhuận dự kiến là số dương, hơn cả mong đợi theo kế hoạch đã được thông qua tại Đại hội đồng cổ đông hồi đầu năm;...). Ngoài ra, diễn biến tích cực từ giá dầu dù có khả năng đã phản ánh vào giá cổ phiếu nhóm Dầu khí nhưng vẫn có thể là yếu tố tốt hỗ trợ cho nhóm này.

Ông Ngọc đánh giá, thị trường có khả năng điều chỉnh trong ngắn hạn, tuy vậy xu hướng trung – dài hạn vẫn tốt và việc thị trường điều chỉnh tạo ra cơ hội tốt để nhà đầu tư cơ cấu lại danh mục, tìm kiếm cơ hội đầu tư mới.

Cùng đồng tình quan điểm đó, ông Nguyễn Thế Minh - Phó Giám đốc kiêm Trưởng nhóm Phân tích thị trường vốn, Khối khách hàng cá nhân SSI cho rằng, VN-Index đã vượt qua vùng kháng cự nhẹ là 1.010 điểm, nhưng vùng 1.050 là vùng kháng cự rất mạnh và nhạy cảm.

Ông đánh giá, thị trường sẽ đối mặt nhịp điều chỉnh thời gian tới, kịch bản có thể là một tuần điều chỉnh với vùng hỗ trợ ngắn hạn hiện nay của VN-Index là 1000 điểm.

Dòng tiền trong tuần giao dịch 15/1 – 19/1 theo các chuyên gia có thể chảy sang nhóm cổ phiếu bất động sản. Có thể thấy, tuần giao dịch 8/1 – 12/1 ghi nhận dòng tiền dần dịch chuyển sang các mã ngành khác như bất động sản, chứng khoán.

Đặc biệt, phiên 12/1 ghi nhận bộ đôi cổ phiếu bất động sản VIC – VRE đã ‘gánh’ thị trường khi đồng loạt đạt mức giá cao nhất kể từ khi niêm yết.

Ông Nguyễn Thế Minh kỳ vọng sự đột biến của nhóm cổ phiếu bất động sản. Ông cho rằng, ‘Quý IV thường là thời điểm của nhóm bất động sản về kết quả kinh doanh. Hiện tại, dù chưa nhiều doanh nghiệp bất động sản ra kết quả kinh doanh. Tuy vậy, dòng tiền thời gian qua đang dần dịch chuyển sang nhóm cổ phiếu này”.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ