Bộ Tư pháp có 57 cục trưởng nhưng cũng mới đông chỉ bằng 1/3 Bộ Tài chính

Nhàđầutư
Theo nhận định của Chính phủ, giai đoạn 2011 – 2016, bộ máy vẫn còn cồng kềnh, tăng đầu mối bên trong, với nhiều tầng nấc trung gian.
HẢI ĐĂNG
01, Tháng 12, 2017 | 11:39

Nhàđầutư
Theo nhận định của Chính phủ, giai đoạn 2011 – 2016, bộ máy vẫn còn cồng kềnh, tăng đầu mối bên trong, với nhiều tầng nấc trung gian.

cong-chuc-vuot-quy-dinh

 Theo nhận định của Chính phủ, giai đoạn 2011 – 2016, bộ máy vẫn còn cồng kềnh, tăng đầu mối bên trong, với nhiều tầng nấc trung gian. Ảnh minh họa

Theo Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội, giai đoạn 2011 – 2016, bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn cồng kềnh, tăng đầu mối bên trong, với nhiều tầng nấc trung gian. Tỷ lệ công chức giữ chức danh lãnh đạo từ cấp phó phòng trở lên trên số công chức còn rất cao.

Thống kê cho thấy, số lượng thứ trưởng tính đến ngày 22/12/2016 có 106 người, bộ nhiều nhất có tới 7 thứ trưởng. Số lượng cục trưởng tại các cục lên tới 337 người, riêng Bộ Tài chính có 181 cục trưởng, Bộ KH&ĐT 63 người, Bộ Tư pháp là 57 người.

Ngoài ra, số lượng phó cục trưởng tại các cơ quan trung ương cũng lên tới 767 người, vụ trưởng là 218, phó vụ trưởng là 593 người, giám đốc sở và tương đương 1.200 người, trưởng phòng và tương đương gần 4.600 người.

Theo giải thích của Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân, do số lượng đầu mối tổ chức bên trong của các cơ quan tăng khi biên chế cơ bản giữ ổn định và thực hiện chính sách tinh giản biên chế nên số lượng công chức giữ vị trí lãnh đạo quản lý từ cấp phó phòng trở lên trong các tổ chức hành chính cao, dẫn đến mất cân đối giữa số lượng người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý và số công chức tham mưu.

Cụ thể, tính đến thời điểm 31/12/2016, còn một số tổ chức có số lượng cấp phó vượt so với quy định, như: Bộ Giao thông Vận tải có Cục Quản lý xây dựng đường bộ (4 phó), Cục Quản lý đường bộ cao tốc (4 phó); Bộ Công Thương có Cục Công nghiệp địa phương, Cục Xúc tiến thương mại, Cục Quản lý thị trường (4 phó); Bộ Tài chính có một số vụ, đơn vị thuộc Bộ có số lượng Phó vụ trưởng vượt quá quy định (Vụ Pháp chế: 5, một số vụ, đơn vị khác: 4).

Cũng theo báo cáo năm 2016, tổng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện gần 270 nghìn người.

Trong đó hiện có 11 địa phương sử dụng vượt 7.951 biên chế so với số biên chế công chức được Bộ Nội vụ giao là: Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Dương, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Bình Thuận, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Long An. Ngoài ra, còn 19.900 người là lao động hợp đồng cho 18 bộ ngành, 46 địa phương sử dụng.

Theo nhận định của Đoàn giám sát, mô hình tổ chức quản lý ở cấp xã cũng có những bất hợp lý và còn nhiều hạn chế.

Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố tăng nhanh (từ 729.509 người giai đoạn tháng 8/2011 lên 837.657 người tại thời điểm tháng 12/2016, tăng 108.148 người), trong khi mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách ở một số địa phương rất thấp, chỉ 0,2 - 0,3 mức lương cơ sở, gây nhiều khó khăn, tâm tư trong chính đội ngũ này.

Đáng chú ý, có gần 1,3 triệu cán bộ, công chức cấp xã và số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Theo đó, riêng quỹ lương và phụ cấp dành để chi cho nhóm đối tượng này là 32.000 tỷ đồng/năm.

Số tiền lương để chi trả cho gần 270 nghìn biên chế công chức thuộc khối Chính phủ quản lý không thể hiện trong báo cáo. Chính phủ chỉ nêu, giai đoạn 2007-2017, nhà nước đã 7 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) từ 450.000 đồng lên 1.210.000 đồng/tháng, tăng thêm 268,9%, cao hơn chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố. 

Số lượng biên chế công chức được khẳng định là giảm 3.000 người trong giai đoạn từ 2011 - 2016 nhưng biên chế viên chức tại các đơn vị sự nghiệp lại tăng thêm gần 123.000 người.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ