Bị áp thuế 0% thành 25%, doanh nghiệp gỗ kêu cứu vì nguy cơ phá sản

Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) vừa kêu cứu lên Bộ NN&PTNT, Tài Chính, Công Thương, khi hàng ván gỗ ghép thanh bị Hải quan áp thuế từ 0% lên tới 25%, đối diện với nguy cơ giải thể, phá sản. Nhiều lô hàng đang bị ứ tại cảng, bị đối tác nước ngoài phạt do chậm giao hàng.
NAM KHÁNH
02, Tháng 08, 2020 | 08:15

Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) vừa kêu cứu lên Bộ NN&PTNT, Tài Chính, Công Thương, khi hàng ván gỗ ghép thanh bị Hải quan áp thuế từ 0% lên tới 25%, đối diện với nguy cơ giải thể, phá sản. Nhiều lô hàng đang bị ứ tại cảng, bị đối tác nước ngoài phạt do chậm giao hàng.

Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Viforest cho biết, những ngày qua, hàng ván ghép thanh bị ùn tắc tại nhiều cảng, nhiều doanh nghiệp thành viên Hiệp hội bị đối tác thương mại phạt do chậm giao hàng. Nguyên nhân được cho là xuất phát từ văn 4250/TB-TCHQ, do ông Lưu Mạnh Tưởng, Phó Tổng cục trưởng Hải quan ký ngày 24/6/2020.

Theo văn bản này, ván ghép thanh chủ yếu sử dụng nguyên liệu gỗ keo rừng trồng và gỗ cao su, bị áp mã HS 4407 là “gỗ đã cưa và xẻ theo chiều dọc, lạng hoặc bóc, đã hoặc chưa bào, chà nhám hoặc ghép nối đầu, có độ dày trên 6 mm”, thuộc phân nhóm HS 440729.97.90.

Như vậy, gỗ ghép thanh bị coi là sản phẩm sơ chế, như gỗ xẻ thanh, bị áp thuế xuất khẩu 25% để hạn chế, thậm chí ngăn chặn xuất khẩu vì không tạo nhiều giá trị gia tăng và vì phải dành nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước.

van_ghep_lenz

Bộ NN&PTNT cho rằng, việc Tổng cục Hải quan áp dụng mã hàng hóa của ván ghép thanh theo mã HS 4407 là không phù hợp với Thông tư 65 cũng như ý kiến của Bộ Tài chính tại Văn bản số 9365/BTC ngày 01/7/2009

Trong khi đó, thực tế gỗ ghép thanh đã được áp mã HS 4418 (đồ mộc dùng trong xây dựng, kể cả tấm gỗ có lõi xốp, tấm lát sàn đã lắp ghép và ván lợp - shingles and shakes), nằm trong phân nhóm HS 4418.90.99.

Tại văn bản số 9365/BTC-CST, ngày 1/7/2009, về việc thuế xuất khẩu tấm gỗ ghép thanh thành tấm, Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) đã khẳng định gỗ ván ghép thanh là “mặt hàng tấm gỗ (panel) làm từ các thanh gỗ (kể cả loại đã được ghép theo chiều dọc để làm tăng chiều dài của gỗ như mô tả tại nhóm 4407) được tiếp tục ghép theo chiều ngang thành các tấm…”. Đây là nhóm từ 44.18 đến 44.11, thuế suất 0%.

Ngoài ra, Cục Hải quan TPHCM (văn bản số 959/HQTPHCM-TXNK ngày 10/4/2015) và Chi cục Kiểm định Hải quan 4 cũng (văn bản số 337/TB-KĐ4, ngày 13/3/2019), cũng đã khẳng định gỗ ván ghép thanh thuộc nhóm hàng mã HS 4418.

Về quy chuẩn và thông lệ quốc tế, Malaysia và Indonesia là hai nước thành viên ASEAN, đều kê khai gỗ ván ghép thanh vào mã HS 4418. Tại Chương 44 của Biểu thuế quan hài hòa, Vương quốc Anh cũng quy định ván ghép thanh thuộc mã HS 4418.

Theo ông Lập, thực hiện chủ trương của Chính phủ thúc đẩy nông dân chuyển sang trồng rừng gỗ lớn, hạn chế xuất khẩu dăm gỗ, nhiều doanh nghiệp ngành gỗ đã đầu tư nhà máy chế biến gỗ ván ghép thanh để xuất khẩu.

“Với quyết định áp mã HS 4407 và áp thuế 25%, công nghiệp gỗ ván ghép thanh, có thể mang lại hàng trăm triệu USD kim ngạch xuất khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này đối diện nguy cơ vỡ nợ, phá sản”, ông Lập phân tích.

van_ghep12_kxzu

Việc áp thuế bất nhất đã gây ra tình trạng tồn đọng ván và các sản phẩm sử dụng ván ghép thanh ở các bến cảng biển, nếu tình trạng kéo dài sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp

Về vấn đề trên, Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) cho rằng, quá trình sản xuất ván ghép thanh đã làm thay đổi hoàn toàn kết cấu của thanh gỗ xẻ cơ sở ban đầu (mã HS 4407) thông qua các công đoạn chế biến sâu tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.

Vì vậy, việc áp dụng mã hàng hóa của ván ghép thanh theo mã HS 4407 là không phù hợp với Thông tư 65 cũng như ý kiến của Bộ Tài chính tại Văn bản số 9365/BTC ngày 01/7/2009 và sẽ không khuyến khích được doanh nghiệp trong nước sản xuất chế biến sâu để hạn chế nhập khẩu đối với loại ván này.

Mặt khác, trước thời điểm ngày 24/6/2020, ván ghép thanh xuất khẩu được áp mã 4418 (thuế suất bằng 0%). Do vậy, với quy định mới của Tổng cục Hải quan, các doanh nghiệp không thể điều chỉnh ngay được giá xuất khẩu vì các hợp đồng đã ký từ trước.

Điều này gây ra tình trạng tồn đọng ván và các sản phẩm sử dụng ván ghép thanh ở các bến cảng biển, nếu tình trạng kéo dài sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

Hiện Việt Nam có gần 150 doanh nghiệp sản xuất ván ghép thanh, với công suất khoảng 570.000 m3 phẩm/năm. Nguyên liệu sản xuất ván ghép thanh là các loại gỗ rừng trồng trong nước, chủ yếu là gỗ keo, cao su, bạch đàn.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu ván ghép thanh năm 2019 đạt 332,7 triệu USD, chiếm 2,9 % tổng giá trị xuất khẩu lâm sản, tăng 16,7 % so với năm 2018. Còn 6 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu mặt hàng này đạt 181,5 triệu USD, chiếm 3,4% giá trị xuất khẩu, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2019.

Trên thị trường, ván ghép thanh có giá xuất khẩu cao gấp 3-4 lần giá gỗ xẻ (gỗ xẻ giá từ 3,4-3,6 triệu đồng/m3; ván ghép thanh giá từ 10-14 triệu đồng/m3), trong khi để làm ra 1m3 ván ghép thanh cần sử dụng 1,7-1,8 m3 gỗ xẻ.

Bộ NN&PTNT đề nghị Bộ Tài chính áp mã HS 4418 với gỗ ghép thanh

Ngày 31/7, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn đã ký văn bản gửi Bộ Tài chính về vấn đề áp mã HS với ván ghép thanh khi xuất khẩu.

Theo đó, Bộ NN&PTNT cho rằng, việc Tổng cục Hải quan áp dụng mã hàng hóa của ván ghép thanh theo mã HS 4407 là không phù hợp với Thông tư 65 cũng như ý kiến của Bộ Tài chính tại Văn bản số 9365/BTC ngày 1/7/2009.

Do vậy, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19, Bộ NN&PTNT đề nghị Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Hải quan không điều chỉnh và mà vẫn áp dụng mã hàng xuất khẩu 44.18 đối với ván ghép thanh và các sản phẩm đồ mộc có sử dụng ván ghép thanh như hiện nay theo đề nghị của Viforest.

(Theo Tiền Phong)

 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25030.00 25048.00 25348.00
EUR 26214.00 26319.00 27471.00
GBP 30655.00 30840.00 31767.00
HKD 3156.00 3169.00 3269.00
CHF 27071.00 27180.00 27992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15862.00 15926.00 16400.00
SGD 18109.00 18182.00 18699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17920.00 17992.00 18500.00
NZD   14570.00 15049.00
KRW   17.26 18.81
DKK   3520.00 3646.00
SEK   2265.00 2349.00
NOK   2255.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ