6 tháng đầu năm, các thị trường mới nổi đều giảm điểm mạnh

Nhàđầutư
Ảnh hưởng từ FED thực sự đã khiến các thị trường mới nổi chao đảo.
HÓA KHOA
08, Tháng 07, 2018 | 07:04

Nhàđầutư
Ảnh hưởng từ FED thực sự đã khiến các thị trường mới nổi chao đảo.

nhadautu - thi truong moi noi giam diem manh

 

Việc lợi tức trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm vượt 3%, FED tăng lãi suất thêm 2% và có khả năng tăng thêm đã được nhiều chuyên gia đánh giá ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán các khu vực mới nổi.

Bloomberg trong bài viết với tựa đề “Tại sao một số thị trường mới nổi gần đây đột nhiên đi xuống?” đánh giá, việc các nhà đầu tư phản ứng tích cực từ Hoa Kỳ - tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, lãi suất và đồng đô la tăng mạnh hơn đã khiến Hoa Kỳ trở thành thỏi nam châm hút tiền và làm suy yếu sự hấp dẫn từ các thị trường mới nổi.

Và quả thực, quý II/2018 đã cho thấy sự xáo trộn mạnh của thị trường tiền tệ đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán (TTCK) như thế nào, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

Báo cáo mới đây từ Công ty CP Chứng khoán Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) đã đánh giá, Chỉ số đồng đô la tăng 5% trong quý II so với mức giảm giá 2.5% trong quý I, kéo theo sự mất giá đồng loạt đồng nội tệ các quốc gia chủ chốt, trong đó EUR, JPY (Nhật Bản), INR (Ấn Độ), CNY (Trung Quốc) mất giá lần lượt 5.5%, 4.2%, 5.3%, và 4.8%, đặc biệt RUB (Nga), TRY (Thổ Nhĩ Kỳ) và BRL (Braxin) mất lần lượt - 9.1%, -16.1% và -16.6% giá trị.

Sự bất ổn ở này kéo theo sự thoái lui của dòng vốn ngoại tại khu vực thị trường mới nổi và biên, vốn có rủi ro cao hơn so với khu vực phát triển. Trong quý II, chỉ số MSCI khu vực phát triển (MXWO) vẫn có mức tăng 1.1%, ngược lại chỉ số MSCI khu vực mới nổi (MXEF) và MSCI khu vực cận biên (MXFM) giảm mạnh lần lượt -17.3% và -8.6%. Tính chung 6 tháng đầu năm, các chỉ số MXWO, MXEF và MXFM lần lượt giảm -1.3%, -9.2% và -13.8% (quy đổi USD).

Ở khu vực các nước BRIC (các nước phát triển mới nổi), các chỉ số chứng khoán đều giảm trong tháng 6 nổi bật với mức giảm -8% của Trung Quốc và -5.2% của Braxin. Tính chung quý II, khu vực có sự phân hóa mạnh khi chỉ số chứng khoán Ấn Độ và Nga tăng lần lượt 5.9% và 1.1% trong khi chỉ số chứng khoán Trung Quốc và Braxin có mức giảm mạnh lần lượt -10.1% và -14.9%.

Trong khi đó ở thị trường khu vực, các chỉ số chứng khoán đều giảm trong tháng 6. Những thị trường giảm không đáng kể trước đó đều giảm mạnh gồm Thái Lan và Singapore với mức giảm -7.6% và -4.7%. Các thị trường đã giảm mạnh trước đó có tốc độ giảm chậm hơn như Việt Nam -1.1%, Malaysia -2.8%. Tính chung quý II, chỉ số chứng khoán Việt Nam tiếp tục dẫn đầu đà giảm với -18.2%, theo sau là Thái Lan -10.2% và Phillipines -9.9%.

Quý II ghi nhận đồng nội tệ khu vực các nước đang phát triển mất giá có liên quan mật thiết với sự đi xuống của TTCK. Sự yếu kém của nền kinh tế đi kèm với sự mất giá đồng nội tệ kéo theo sự rút vốn của dòng vốn ngoại đã khiến các TTCK giảm mạnh. Dù vậy cũng có một số ngoại lệ, Việt Nam tỷ giá chỉ mất -0.2% trong khi TTCK giảm 18.2%; Nga và Ấn Độ tỷ giá mất lần lượt - 9.5% và -5.3% thì TTCK lại tăng 1.1% và 5.9%.

Với riêng TTCK Việt Nam, ngoài yếu tố từ bên ngoài ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường, cần phải kể đến các yếu tố nội tại riêng như (1) Các chỉ số định giá P/E và P/B VN-Index cao so với thế giới, các cổ phiếu chủ chốt có mức định giá cao đã tạo áp lực điều chỉnh khi dòng vốn ngoại đảo chiều và tâm lý chững; (2) Thị trường cũng bị méo mó bởi các cổ phiếu lớn mới niêm yết và (3) Thị trường ngấm và suy yếu dần trước lượng cung cổ phiếu lớn trong thời gian gần đây. Lượng cung hàng tăng mạnh trong khi lực cầu chưa có chuyển biến về chất và cũng không ổn định về lượng.

Đóng cửa phiên giao dịch 6/7, VN-Index ‘bất ngờ’ bật tăng 18,11 điểm, tương đương 2,01% đạt 917,51 điểm.

Sàn HNX-Index tăng 4,47% đạt 100,70 điểm. Sàn UpCom đạt 49,65 điểm, tăng 0,80%.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24620.00 24940.00
EUR 26373.00 26479.00 27646.00
GBP 30747.00 30933.00 31883.00
HKD 3106.00 3118.00 3220.00
CHF 27080.00 27189.00 28038.00
JPY 159.61 160.25 167.69
AUD 15992.00 16056.00 16544.00
SGD 18111.00 18184.00 18724.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17987.00 18059.00 18594.00
NZD   14750.00 15241.00
KRW   17.82 19.46
DKK   3544.00 3676.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ