Tín dụng ngân hàng có dấu hiệu tăng trưởng thấp hơn năm 2017

Nhàđầutư
Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) vừa công bố báo cáo tình hình kinh tế, tài chính tháng 2 và 2 tháng đầu năm cho thấy tăng trưởng tín dụng đầu năm 2018 giảm so với đầu năm 2017.
ĐÌNH VŨ
09, Tháng 03, 2018 | 11:50

Nhàđầutư
Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) vừa công bố báo cáo tình hình kinh tế, tài chính tháng 2 và 2 tháng đầu năm cho thấy tăng trưởng tín dụng đầu năm 2018 giảm so với đầu năm 2017.

tang-truong-tin-dung

Tín dụng tháng 2 và 2 tháng đấu năm 2018 giảm so với cùng kỳ năm 2017 

Cụ thể, theo nhận định tăng trưởng tín dụng 2 tháng đầu năm 2018 thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017. Tháng 1/2018, tổng tín dụng (bao gồm cả cho vay khách hàng và đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp) tăng khoảng 0,9% so với cuối năm 2017, trong khi đó cùng kỳ năm 2017 tăng 1,6%. Tháng 2/2018, tín dụng ước tăng khoảng 1% với với cuối năm 2017. 

Trong tháng 1/2018, tăng trưởng tín dụng có thể chững lại do yếu tố mùa vụ. Cả năm 2018, tăng trưởng tín dụng duy trì trong khoảng 17% -18%, và sẽ được điều chỉnh linh hoạt nhằm cân bằng và ổn định các mục tiêu vĩ mô. 

Cơ cấu tín dụng theo kỳ hạn, tỷ trọng tín dụng trung dài hạn tiếp tục giảm. Tín dụng trung dài hạn chiếm 53,0% tổng tín dụng (cùng kỳ tháng 1/2017 chiếm 55,2%). Tín dụng ngắn hạn chiếm 47,0% tổng tín dụng (cùng kỳ tháng 1/2017 chiếm 44,9%).

Cơ cấu tín dụng theo loại tiền, tỷ trọng tín dụng bằng ngoại tệ giảm. Tín dụng bằng VND chiếm 92,0% tổng tín dụng (cùng kỳ tháng 1/2017 chiếm 91,6%). Tín dụng ngoại tệ chiếm 8,0% tổng tín dụng (cùng kỳ tháng 1/2017 chiếm 8,4%).

Cơ cấu tín dụng theo ngành kinh tế trong tháng 1/2018 ít biến động so với cuối năm 2017. Trong đó, cho vay ngành công nghiệp, xây dựng chiếm khoảng 22,1%; Cho vay đối với hoạt động làm thuê, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình chiếm 16,5%; Cho vay ngành nông lâm thủy sản chiếm khoảng 8,0%. Cho vay kinh doanh bất động sản và xây dựng khoảng 16,1%. Cho vay tiêu dùng chiếm khoảng 18,3%.

Tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo vào khoảng 2,5%. Tuy nhiên, nợ xấu vẫn tập trung cao ở các TCTD yếu kém, trong diện tái cơ cấu. Nợ xấu tiềm ẩn trong tất cả các khoản 7 nợ cơ cấu lại, TPDN, và các khoản phải thu bên ngoài. Ngoài ra, một số TCTD đã mua lại nợ xấu bán cho VAMC để tự xử lý.

Vốn huy động từ tổ chức kinh tế và cá nhân tăng ngay từ tháng 1/2018. Cụ thể vốn huy động tăng 0,5% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ tháng 1/năm 2016 và năm 2017 đều giảm lần lượt là 0,8% và 1,3%). Trong đó, vốn huy động bằng VNĐ tăng 0,6%, chiếm 90,3% tổng vốn huy động; vốn huy động bằng ngoại tệ giảm 0,3%, chiếm 9,7% tổng vốn huy động.

Về thanh khoản của hệ thống ngân hàng dồi dào hơn do yếu tố mùa vụ vào dịp Tết Nguyên đán. Biểu hiện là lãi suất liên ngân hàng tăng trở lại. Tỷ lệ tín dụng so với huy động vốn tăng từ 85,5% năm 2016 lên khoảng 88% vào cuối tháng 2/2017. Tuy nhiên, thanh khoản toàn hệ thống vẫn được hỗ trợ rất lớn từ việc NHNN mua lượng lớn ngoại tệ và cung ứng ròng khoảng 70 nghìn tỷ đồng trong 2 tháng đầu năm 2018.

Lãi suất huy động bình quân tương đối ổn định. Lãi suất huy động VNĐ bình quân kỳ hạn trên 12 tháng ở mức khoảng 6,55% (tăng 0,03 điểm % so với cuối năm 2017) và phổ biến ở mức 6,5-7,3%. Về lãi suất cho vay, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-6,5%/năm đối với ngắn hạn, ở mức 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24810.00 24830.00 25150.00
EUR 26278.00 26384.00 27554.00
GBP 30717.00 30902.00 31854.00
HKD 3125.00 3138.00 3240.00
CHF 26952.00 27060.00 27895.00
JPY 159.41 160.05 167.39
AUD 16033.00 16097.00 16586.00
SGD 18119.00 18192.00 18729.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17923.00 17995.00 18523.00
NZD   14756.00 15248.00
KRW   17.51 19.08
DKK   3529.00 3658.00
SEK   2286.00 2374.00
NOK   2265.00 2354.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ