LienVietPostBank ra sao hậu ông chủ Him Lam rút lui?

Nhàđầutư
Ông Dương Công Minh, Chủ tịch HĐQT Him Lam và ông Nguyễn Đức Hưởng, Chủ tịch LienVietPostBank từng được ví như cặp bài trùng cùng lãnh đạo đưa còn thuyền ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt vượt ngàn sóng gió, trong đó ông Minh là thuyền trưởng. Tuy nhiên, quý III/2017 đánh dấu sự ra đi của ông Minh khỏi con tàu này...
NGUYỄN THOAN
22, Tháng 10, 2017 | 09:52

Nhàđầutư
Ông Dương Công Minh, Chủ tịch HĐQT Him Lam và ông Nguyễn Đức Hưởng, Chủ tịch LienVietPostBank từng được ví như cặp bài trùng cùng lãnh đạo đưa còn thuyền ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt vượt ngàn sóng gió, trong đó ông Minh là thuyền trưởng. Tuy nhiên, quý III/2017 đánh dấu sự ra đi của ông Minh khỏi con tàu này...

lienvietpostbank-giao-dich

LienVietPostBank ra sao sau khi ông chủ Him Lam rút lui? 

Ông Nguyễn Đức Hưởng gia nhập LienVietPostBank từ giai đoạn đầu tiên và trở thành Chủ tịch HĐQT của ngân hàng kể từ tháng 6/2017, thay thế ông Dương Công Minh (Chủ tịch HĐQT hiện tại của Sacombank). Ở cùng một thời điểm, ông Minh và ông Hưởng cùng đứng chân trên những vị trí mới, nhưng ông Hưởng vẫn được coi là người có lợi thế lớn hơn khi đã quá thân thiết với LienVietPostBank và bản thân ngân hàng này cũng là một ngân hàng tốt.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào kết quả kinh doanh quý III ngân hàng LienVietPostBank vừa công bố nhiều người sẽ thấy chạnh lòng nếu đem so sánh với những gì ông Minh đang làm được tại Sacombank như: lợi nhuận tăng gấp đôi so với cùng kỳ, lũy kế 9 tháng tăng 8,7 lần so với đầu năm.

Theo đó, BCTC quý III của LienVietPostBank cũng đã đánh dấu bước tiến của ngân hàng này khi ghi nhận lợi nhuận sau thuế 9 tháng vượt ngưỡng 1.100 tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ.

Kết quả kinh doanh của ngân hàng có được chủ yếu từ thu nhập lãi thuần 9 tháng đầu năm đạt trên 3.900 tỷ đồng, tăng 43% so với cùng kỳ và hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư mang về gần 300 tỷ đồng, trong khi 9 tháng đầu năm 2016 lỗ gần 230 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế ghi nhận những bước tiến đáng kể, 9 tháng đầu năm đạt 1.433 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế gần 1.126 tỷ đồng, tăng khoảng 60-65% so với cùng kỳ.

Tính riêng trong quý III/2017, lợi nhuận trước thuế hơn 523 tỷ đồng, tăng 32%; lợi nhuận sau thuế 419 tỷ đồng, tăng 28%.

Tuy nhiên, thu nhập từ hoạt động khác vẫn ghi nhận lỗ, tăng từ âm 136 tỷ đồng lên âm 519 tỷ đồng. Bên cạnh đó, chi phí hoạt động và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng lần lượt 50% và 25% lên 1.839 tỷ đồng, 474 tỷ đồng.

Tính đến thời điểm 30/09/2017, tổng tài sản có của Ngân hàng tăng nhẹ so với cuối năm 2016, đạt 148,050 tỷ đồng. Tiền gửi của khách hàng hơn 122.444 tỷ đồng, tăng 10%. Cho vay khách hàng đạt 94.867 tỷ đồng, tăng 19%.

Nợ xấu tính tới 30/9/2019, tăng nhẹ so với cuối năm 2016, ở mức 1,19%. Trong đó, đáng chú ý là nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) mạnh, tăng 2,6 lần so với thời điểm cuối năm 2016, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) tăng 10%.

Trong cơ cấu nợ của LienVietPostBank, nợ trung hạn luôn chiếm tỷ lệ cao. Dư nợ trung hạn cuối quý III/2017 đạt gần 47.900 tỷ đồng, gấp đôi nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.

Các khoản đầu tư dài hạn của LienVietPostBank vẫn bao gồm 10% vốn góp vào CTCP Điện Việt Lào (giá trị hiện tại 300 tỷ đồng), 5.5% vốn vào CTCK Liên Việt (16 tỷ đồng) và 44% vào CTCP Phát triển Xín Mần (8.8 tỷ đồng) - trong đó LienVietPostBank sở hữu hơn 20% vốn của Xín Mần.

Như vậy, có thể thấy kết quả kinh doanh quý III/2017 của LienVietPostBank tuy không có nhiều đột phá, nhưng cũng đã có những bước tiến triển nhất định so với cùng kỳ năm ngoái và so với thời điểm đầu năm. Đây có thể là kết quả có được từ những nỗ lực của vị chủ tịch mới là ông Nguyễn Đức Hưởng từ khi nhậm chức tới nay.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ