Soi lợi nhuận của các ông lớn viễn thông ‘mùa’ COVID-19

Nhàđầutư
Các doanh nghiệp viễn thông đã chịu không ít ảnh hưởng trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đến mọi ngành nghề kinh doanh.
NHẬT HUỲNH
20, Tháng 08, 2020 | 13:33

Nhàđầutư
Các doanh nghiệp viễn thông đã chịu không ít ảnh hưởng trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đến mọi ngành nghề kinh doanh.

cach-chuyen-tu-tra-sau-sang-tra-truoc-MobiFone-1

Nửa đầu năm 2020, lợi nhuận của Mobifone giảm hơn 1.000 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước. Nguồn ảnh: Mobifone.

Tổng công ty Viễn thông MobiFone vừa công bố BCTC riêng lẻ nửa đầu năm 2020 với doanh thu thuần đạt 12.068 tỷ đồng, giảm 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Sau khi trừ giá vốn, lợi nhuận gộp còn lại chỉ gần 3.000 tỷ đồng, giảm tới 57%.

Trong kỳ, MobiFone ghi nhận sự giảm sút của khoản thu nhập khác hơn 45 tỷ đồng, kết quả, 6 tháng đầu năm, MobiFone đạt lợi nhuận trước thuế 1.636 tỷ đồng, giảm hơn 1.000 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái. Vốn chủ sở hữu của MobiFone tính đến hết ngày 30/6 ở mức trên 21.400 tỷ đồng, tăng nhẹ 3% so với đầu năm và nợ phải trả hơn 9.400 tỷ đồng.

Trái ngược với MobiFone, lợi nhuận nửa đầu năm nay của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) vẫn tăng nhẹ bất chấp ảnh hưởng từ dịch COVID-19.

Theo công bố thông tin từ VNPT, 6 tháng đầu năm 2020, doanh nghiệp này ghi nhận 24.202 tỷ đồng doanh thu thuần hợp nhất, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Sau khi trừ đi giá vốn, lợi nhuận gộp còn lại 7.036 tỷ đồng, giảm 5,7%.

Trong kỳ, VNPT cũng ghi nhận hơn 1.361 tỷ đồng doanh thu tài chính, tăng nhẹ 3,1%. Trong khi đó, chi phí tài chính tiếp tục ở mức thấp, chỉ 63,5 tỷ đồng. Thêm vào đó, chi phí quản lý doanh nghiệp giảm tới hơn 400 tỷ đồng về mức 2.484 tỷ đồng và chi phí bán hàng giảm 5,7% về 2.312 tỷ đồng. Dẫn đến, 6 tháng đầu năm 2020, VNPT vẫn ghi nhận lợi nhuận trước thuế hợp nhất tăng nhẹ gần 1% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 3.595 tỷ đồng. Tương tự, lợi nhuận trước thuế riêng lẻ của VNPT vẫn ghi nhận mức tăng 2,1%, đạt trên 2.454 tỷ đồng.

Tính đến hết ngày 30/6/2020, tổng tài sản hợp nhất của VNPT đạt 95.368 tỷ đồng, giảm nhẹ 3,6% so với đầu năm. Trong đó, tài sản ngắn hạn chiếm gần 54%, còn lại là tài sản dài hạn. Vốn chủ sở hữu hợp nhất đến hết ngày 30/6/2020 của VNPT là trên 68.306 tỷ đồng, nợ phải trả là trên 27.060 tỷ đồng.

Còn đối với Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), hiện tại công ty này vẫn chưa công bố BCTC nửa đầu năm 2020, dẫu vậy, về cơ bản hoạt động kinh doanh cốt lõi của các công ty thuộc họ Viettel vẫn duy trì sự ổn định trong 6 tháng đầu năm 2020.

Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2020, Tổng CTCP Đầu tư Quốc tế Viettel (Viettel Global – mã VGI) ghi nhận doanh thu thuần tăng trưởng 6% lên 4.309 tỷ đồng. Với chi phí được tối ưu, lãi gộp tăng trưởng tới 15%, đạt 1.658 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu tiếp tục cải thiện, đạt 38,5%.

Lũy kế 6 tháng đầu năm, Viettel Global ghi nhận 8.613 tỷ đồng doanh thu, tăng xấp xỉ 10% so với mức 7.854 tỷ đồng của cùng kỳ 2019. Lãi gộp tăng gần 19% lên 3.292 tỷ đồng. Trừ đi các chi phí, Viettel Global ghi nhận 1.172 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tương đương kết quả của nửa đầu năm 2019; lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ đạt 763 tỷ đồng.

Trong khi đó, lũy kế nửa đầu năm, Tổng CTCP Công trình Viettel (mã CTR) đạt doanh thu 2.686 tỷ đồng, tăng 11% và lợi nhuận sau thuế 98,4 tỷ đồng, tăng 28% so với cùng kỳ 2019. So với kế hoạch lãi 200 tỷ đồng trong năm 2020, CTR hiện đã hoàn thành xấp xỉ 50% chỉ tiêu đề ra. Trước đó tại ĐHĐCĐ diễn ra vào tháng 6, ban lãnh đạo CTR cho biết công ty không chịu nhiều ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và tự tin hoàn thành kế hoạch kinh doanh năm 2020.

Tương tự, Tổng CTCP Bưu chính Viettel (Viettle Post – mã VTP) ghi nhận doanh thu nửa đầu năm đạt 6.797 tỷ đồng doanh thu và 200 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tương ứng tăng 125% và 21% so với nửa đầu năm 2019. Với kết quả đạt được, công ty đã thực hiện được 40% mục tiêu lợi nhuận cả năm đề ra.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ