Vì sao nhiều cổ phiếu vốn hóa lớn có kết quả kinh doanh tốt nhưng giá cổ phiếu vẫn giảm?

Nhàđầutư
Mùa báo cáo tài chính quý I/2018 vừa qua cho thấy các cổ phiếu ‘dẫn dắt’ thị trường tiếp tục có các kết quả kinh doanh khả quan. Song vậy, giá cổ phiếu những mã này lại liên tục giảm, đặc biệt là nhóm Ngân hàng. Đây cũng là lý do chính khiến VN-Index liên tục giảm điểm trong thời gian vừa qua.
HÓA KHOA
22, Tháng 05, 2018 | 13:56

Nhàđầutư
Mùa báo cáo tài chính quý I/2018 vừa qua cho thấy các cổ phiếu ‘dẫn dắt’ thị trường tiếp tục có các kết quả kinh doanh khả quan. Song vậy, giá cổ phiếu những mã này lại liên tục giảm, đặc biệt là nhóm Ngân hàng. Đây cũng là lý do chính khiến VN-Index liên tục giảm điểm trong thời gian vừa qua.

nhadautu - tai sao co phieu co KQKD tot nhung gia van giam

 Vì sao nhiều cổ phiếu vốn hóa lớn có kết quả kinh doanh tốt nhưng giá cổ phiếu vẫn giảm?

Tính đến hết giao dịch sáng 22/5, VN-Index chính thức mất mốc hỗ trợ tâm lý 1.000 điểm khi đạt 999,90 điểm (tương đương mức giảm 15,08 điểm so với mốc giá tham chiếu). Đà giảm của thị trường trong phiên sáng nay đến từ việc một loạt cổ phiếu vốn hóa lớn như VIC, VCB, MSN, VNM, BID,... giảm điểm mạnh. 

Việc thị trường mất mốc 1.000 điểm trong phiên giao dịch sáng có thể gây hoang mang tâm lý nhà đầu tư và khiên thị trường giảm sâu hơn nữa trong ngắn hạn, như nhận định của một số chuyên gia chứng khoán. 

Điều đáng nói, VN-Index giảm sâu trong bối cảnh mùa báo cáo tài chính quý I/2018 đầy tích cực.  Tính chung toàn thị trường, tổng lợi nhuận quý I/2018 đạt 47.355 tỷ đồng, tăng 21,62% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, tổng lợi nhuận quý I/2018 của các cổ phiếu vốn hóa lớn thuộc nhóm VN30 đạt gần 28.471 tỷ đồng, tương đương mức tăng trưởng 21,8% so với cùng kỳ. Mức tăng trưởng này vượt xa so với mức tăng trưởng toàn thị trường.

Tiêu biểu có thể kể đến một vãi mã có kết quả kinh doanh tốt, như VIC của Tập đoàn VinGroup – Công ty CP. Trong quý I/2018 vừa qua, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp đạt 1.009 tỷ đồng, tăng 70% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, thời gian gần đây cũng xuất hiện thông tin Tập đoàn này đề ra mục tiêu lợi nhuận sau thuế 8.500 tỷ đồng, tăng 50% so với mức thực hiện trong năm 2017.

Một doanh nghiệp khác có KQKD quý I/2018 ấn tượng không kém là VJC của Công ty CP Hàng không VietJet. Trong quý I/2018, lợi nhuận sau thuế doanh nghiệp đạt hơn 1.480 tỷ đồng, tăng 263% so với cùng kỳ. Nguyên nhân đến từ doanh thu hoạt động vận chuyển hành khách, hàng hóa tăng 37% do số tàu trong kỳ tăng lên đến 54 chiếc so với 34 chiếc cùng kỳ. Ngoài ra, quý I/2018 cũng phát sinh hoạt động chuyển giao sở hữu và thuê 4 tàu.

Xét về nhóm ngành, nhóm cổ phiếu Ngân hàng tiếp tục có các kết quả kinh doanh khả quan. Tính chung, kết quả kinh doanh của các nhà băng tăng trưởng hơn 51% so với cùng quý năm ngoái. Trong đó, cụ thể Tổng thu từ hoạt động kinh doanh Ngân hàng tăng 35%. Báo cáo từ SSI Research nhận định, mức tăng trưởng các quý còn lại của nhóm ngành này sẽ trong mức từ 20% - 30%, mức tăng trưởng cao và giúp kéo tổng lợi nhuận chung toàn thị trường.

Tuy kết quả kinh doanh và triển vọng kinh doanh trong năm 2018 vẫn được đánh giá tích cực, nhưng nhóm cổ phiếu Ngân hàng lại là nguyên nhân chính khiến thị trường giảm điểm mạnh trong thời gian qua.

Vì sao các mã này giảm điểm trong khi kết quả kinh doanh quý I/2018 tích cực?

Với tổng giá trị vốn hóa chiếm đến 24% toàn thị trường, nhưng nhóm Ngân hàng đã đóng góp tới 39% điểm số giảm của VN-Index. SSI cho rằng, đà giảm của nhóm này gây ảnh hưởng đến tâm lý thị trường và nhiều nhóm ngành khác.

Tính riêng tháng 4, các mã trụ cột nhóm Ngân hàng như VCB, CTG, VPB và MBB đều giảm sâu hơn 20% (trong khi đó, VN-Index chỉ giảm 13,24%).

Tính riêng tháng 5, đà giảm của các mã này đã thu hẹp lại, một số mã đã tăng điểm nhẹ như VCB (-6%), MBB (-0,68%), CTG (+3,6%), VPB (-9,6%),…

Đây là nguyên nhân rõ ràng giải thích lý do thời gian qua thị trường giảm điểm khá mạnh.

Cùng với đó, đà giảm của các mã cổ phiếu vốn hóa lớn trong nhóm VN30 càng khiến thị trường giảm sâu, có thể kể đến một số mã như VIC (-8,9%), VRE (-3,7%), VJC (-0,07%),…

Trao đổi với Nhadautu.vn, ông Lê Anh Minh - Giám đốc Phân tích cơ bản Công ty Chứng khoán VPBS nhận định, giá cổ phiếu các mã này tăng mạnh trước đó đã được phản ánh bởi các kết quả kinh doanh tích cực.

‘Ngoài ra, có thể thấy trong đợt vừa rồi, một số nhà đầu tư nước ngoài bán đi một phần các cổ phiếu này để tái cơ cấu danh mục và nhiều nhà đầu tư bán khối lượng lớn để chuẩn bị tiền đấu giá các cổ phiếu sắp lên sàn (Techcombank, Vinhomes)’, ông Lê Anh Minh nói thêm.

Trong khi đó, chuyên gia chứng khoán từ phía Công ty Yuanta, ông Nguyễn Thế Minh nhận định, 'Kết quả kinh doanh nhóm cổ phiếu Ngân hàng tuy tích cực, nhưng chủ yếu đến từ hoạt động kinh doanh khác, thay vì đến từ hoạt động kinh doanh cốt lõi. Đây cũng có thể là nguyên nhân giải thích cho đà giảm của nhóm cổ phiếu này'. 

Một báo cáo từ SSI Research đánh giá, định giá P/B nhóm Ngân hàng đã ở mức đắt so với các cổ phiếu Ngân hàng trên thế giới. P/B của VCB đỉnh điểm lên tới 5x trong khi bình quân của nhóm cổ phiếu ngân hàng có quy mô tương đương chỉ vào khoảng 1.5x. Tương tự, P/B của nhiều mã ngân hàng khác như BID, VPB, HDB, ACB cũng đều vượt ngưỡng 3x.

‘Trong tình hình này, việc điều chỉnh về mức định giá thấp hơn là hoàn toàn lành mạnh và cần thiết cho sự tăng trưởng bền vững của thị trường chứng khoán’, Công ty Chứng khoán top đầu thị phần HSX nhận định.

Ông Lê Anh Minh – Giám đốc phân tích cơ bản Công ty Chứng khoán VPBS

 Tôi đánh giá, triển vọng thị trường thời gian tới có thể hồi phục, nhưng nên lưu ý nhịp hồi có thể biến động cao hơn do các nhà đầu tư đã có sự cẩn trọng hơn. Họ có thể chốt lãi nhanh chóng khi xuất hiện các động thái không thuận lợi của thị trường, nhất là tình hình thế giới. Ngoài ra, nhà đầu tư trong giai đoạn này nên có sự kết hợp giữa Chứng khoán cơ sở và Chứng khoán phái sinh.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ