Phiên 21/9: VN-Index còn giữ được đà tăng?

Nhàđầutư
Các công ty chứng khoán đều cho rằng xu hướng tăng ngắn hạn của VN-Index nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp diễn, do vậy, nhà đầu tư đang giữ lượng cổ phiếu lớn có thể tiếp tục canh những phiên hồi kỹ thuật để giảm tỷ trọng.
NHẬT HUỲNH
21, Tháng 09, 2021 | 06:00

Nhàđầutư
Các công ty chứng khoán đều cho rằng xu hướng tăng ngắn hạn của VN-Index nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp diễn, do vậy, nhà đầu tư đang giữ lượng cổ phiếu lớn có thể tiếp tục canh những phiên hồi kỹ thuật để giảm tỷ trọng.

shutterstock_1011737320_gdcf

Nguồn: Internet

Thị trường chứng khoán trong nước không giữ được đà tăng trong phiên đầu tuần dù thanh khoản đã tăng trở lại và dòng tiền dịch chuyển sang nhóm bluechips, trong đó nổi bật là nhóm cổ phiếu ngân hàng.

VN-Index đóng cửa phiên 20/9 tại 1.350,48 điểm, giảm 0,16%. HNX-Index tăng 0,25%, đóng cửa ở 358,87 điểm; Upcom-Index tăng nhẹ 0,05% lên 97,45 điểm. Giá trị giao dịch khớp lệnh toàn thị trường đạt hơn 29.144 tỷ đồng.

Khối ngoại giao dịch cân bằng khi quay đầu mua ròng hơn 16 tỷ đồng trên cả 3 sàn. VCB (108 tỷ), VNM (94 tỷ), MBB (71 tỷ) là các mã dẫn đầu danh sách mua ròng. Ở chiều ngược lại, VIC (142 tỷ), HSG (37 tỷ), NVL (36 tỷ) là các mã bị rút ròng nhiều nhất.

Theo MBS, việc thị trường điều chỉnh cuối phiên 20/9 có thể đến từ áp lực giảm từ thị trường chứng khoán thế giới. Tuy nhiên tín hiệu tích cực là thanh khoản đã tăng trở lại và dòng tiền quay về nhóm cổ phiếu bluechips, đặc biệt là nhóm ngân hàng. Về kỹ thuật, với phiên điều chỉnh này, chỉ số VN-Index quay lại cận trên của vùng dao động tích lũy kéo dài hơn 2 tuần qua.

“Rủi ro lúc này là việc thị trường thế giới điều chỉnh, do vậy chỉ số VN-Index có thể retest trendline giảm kể từ tháng 7 trong phiên ngày mai, nhóm cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán…có thể là lực đỡ cho thị trường”, MBS phân tích.

Về phần mình, Yuanta cho rằng nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn có thể sẽ sớm kết thúc giai đoạn tích lũy trong vài phiên tới. Đồng thời, chỉ số VN-Index có thể sẽ sớm vượt hoàn toàn ngưỡng 1.355 điểm và hướng về mức kháng cự kế tiếp 1.380 điểm. Điểm tích cực là dòng tiền ngắn hạn đã gia tăng vào nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn, đặc biệt là nhóm ngân hàng. Ngoài ra, rủi ro ngắn hạn trên nhóm cổ phiếu vốn hóa nhỏ có chiều hướng gia tăng cho thấy chỉ số VNSmallcaps có thể sẽ còn xuất hiện các nhịp điều chỉnh ngắn hạn.

Tương tự VCBS cho rằng sau khi tăng điểm tích cực trong các phiên liền trước, phiên giảm điểm 20/9 phần nhiều mang tính chất điều chỉnh kỹ thuật với khối lượng giao dịch không quá đột biến. Dưới góc nhìn kỹ thuật, chỉ số vẫn đang nằm trên đường trung bình động 20 ngày, cho thấy xu hướng tăng ngắn hạn nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp diễn.

Do đó, theo VCBS nhà đầu tư có thể tạm thời quan sát thêm một vài phiên tới để chờ đợi thị trường thử thách thành công ngưỡng 1.350 điểm trước khi xem xét giải ngân theo xu hướng mới nếu chỉ số chung tiếp tục bứt phá đi kèm tín hiệu thanh khoản có sự cải thiện, hoặc giảm bớt tỷ trọng cổ phiếu nếu chỉ số chung không thể giữ được mốc điểm số này. 

Về diễn biến phiên tiếp theo (21/9), SHS dự báo VN-Index có thể hồi phục để hướng đến vùng kháng cự trong khoảng 1.375-1.380 điểm (đỉnh sóng b) nếu như ngưỡng hỗ trợ tâm lý quanh 1.350 điểm được giữ vững. Những nhà đầu tư đang có tỷ trọng cổ phiếu lớn có thể tiếp tục canh những phiên hồi kỹ thuật để giảm tỷ trọng còn nhà đầu tư đang có tỷ trọng tiền mặt cao tiếp tục đứng ngoài và quan sát thị trường, tránh mua đuổi ở thời điểm hiện tại.

Ở góc nhìn thận trọng hơn, BOS cho rằng dòng tiền vẫn chưa cho thấy sự gia tăng mạnh nên thị trường sẽ tiếp tục duy trì diễn biến giằng co trong các phiên tới. Nhà đầu tư có thể thực hiện chiến lược trading trong vùng 1.345-1.365 điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25455.00
EUR 26817.00 26925.00 28131.00
GBP 31233.00 31422.00 32408.00
HKD 3182.00 3195.00 3301.00
CHF 27483.00 27593.00 28463.00
JPY 160.99 161.64 169.14
AUD 16546.00 16612.00 17123.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18239.00 18312.00 18860.00
NZD   15039.00 15548.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3601.00 3736.00
SEK   2307.00 2397.00
NOK   2302.00 2394.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ