Cổ phiếu ngân hàng 'níu' VNIndex

Nhàđầutư
Gần như toàn bộ các nhóm ngành đều điều chỉnh trong tuần qua, riêng nhóm cổ phiếu trụ cột thị trường là ngân hàng giảm mạnh nhất khi thông tin nới room tín dụng được ban hành chính thức.
NHẬT HUỲNH
11, Tháng 09, 2022 | 07:48

Nhàđầutư
Gần như toàn bộ các nhóm ngành đều điều chỉnh trong tuần qua, riêng nhóm cổ phiếu trụ cột thị trường là ngân hàng giảm mạnh nhất khi thông tin nới room tín dụng được ban hành chính thức.

Empty

Tính chung cả tuần giao dịch, VN-Index giảm 31,73 điểm (-2,5%) xuống 1.248,78 điểm. Ảnh Gia Huy.

Sau kỳ nghỉ lễ Quốc khánh, thị trường đã có sự điều chỉnh trong tuần qua khi VN-Index không thể vượt qua được ngưỡng kháng cự tâm lý quanh 1.285 điểm trước áp lực bán ra tăng mạnh. Riêng trong phiên 7/9, lực cung áp đảo tại các nhóm ngành, đặc biệt là nhóm ngân hàng đã khiến VN-Index ghi nhận mức giảm mạnh nhất trong 2 tháng qua với biên độ giảm lên đến 2,68%, lùi về 1.243 điểm.

Chỉ số chính sau đó tiếp tục giảm về 1.234 trong phiên 8/9 và bất ngờ đảo chiều trong phiên cuối tuần để chốt tuần tại 1.248,78. 

Tính chung cả tuần giao dịch, VN-Index giảm 31,73 điểm (-2,5%) xuống 1.248,78 điểm, HNX-Index giảm 7,29 điểm (-2,5%) xuống 284,63 điểm. Giá trị giao dịch trên HoSE tăng 62,4% so với tuần trước đó lên 76.408 tỷ đồng tương ứng với khối lượng giao dịch tăng 67,5% lên 2.982 triệu cổ phiếu. Giá trị giao dịch trên HNX tăng 34,2% so với tuần trước đó lên 7.968 tỷ đồng tương ứng với khối lượng giao dịch tăng 47,8% lên 396 triệu cổ phiếu.

Với mức giảm điểm trên cả hai sàn trong tuần qua (-2,5%), thì gần như toàn bộ các nhóm ngành đều có mức sụt giảm. Trong đó, nhóm cổ phiếu trụ cột thị trường là ngân hàng giảm mạnh nhất khi thông tin nới room tín dụng cho các ngân hàng được ban hành chính thức với các mã tiêu biểu như VCB (-6,2%), BID (-7,5%), CTG (-5%), VPB (-4,1%), TCB (-3,3%), ACB (-2,6%), SHB (-8,3%)...

Tiếp theo là nhóm cổ phiếu dầu khí với mức giảm 4%, nguyên nhân chủ yếu là do giá dầu thế giới có sự sụt giảm, điều này khiến BSR (-4,7%), OIL (-5,8%), PLX (-4,7%), PVD (-1%), PVS (-3,6%), PVB (-9,8%)...

Khối ngoại quay trở lại bán ròng trên hai sàn trong tuần qua với giá trị ròng đạt 812,51 tỷ đồng. Xét theo khối lượng ròng, STB là mã chứng khoán bị bán ròng nhiều nhất với 5,9 triệu cổ phiếu. Tiếp theo là SSI với 5,8 triệu cổ phiếu và MIG với 2,9 triệu cổ phiếu. Ở chiều ngược lại, HPG là mã chứng khoán được mua ròng nhiều nhất với 6,1 triệu cổ phiếu.

Bộ phận tự doanh của các công ty chứng khoán cũng bán ròng trong tuần vừa qua với giá trị đạt 265,5 tỷ đồng trên HoSE.

Trước những diễn biến trên, SHS dự báo trong tuần tiếp theo, VN-Index sẽ phục hồi kiểm tra lại vùng kháng cự 1.260-1.265 điểm. Trên góc nhìn dài hạn, thị trường vẫn đang tích lũy trên nền định giá ở mức thấp so với trung bình 5 năm gần nhất.

“Nhà đầu tư duy trì tỉ trọng hợp lý, chờ thêm các thông tin mới về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi quí III/2022 gần kết thúc, các thông tin vĩ mô, tăng trưởng GDP. mới xem xét gia tăng thêm tỉ trọng đầu tư đối với các mã có tiềm năng tăng trưởng mạnh”, SHS khuyến nghị.

Về phần mình, MBS nhận định chứng khoán thế giới đang tăng trở lại sau 2 tuần điều chỉnh sẽ là một trong các nhân tố hỗ trợ cho thị trường trong tuần sau, nhà đầu tư có thể quan sát thêm phản ứng của thị trường ở ngưỡng 1.250 điểm.

Ở góc nhìn thận trọng, theo SSI, chỉ số chính nhiều khả năng sẽ kiểm lại vùng kháng cự quan trọng 1.250 điểm trong tuần tới. Nếu quay lại trên khu vực này, VN-Index sẽ tiếp tục hồi phục về ngưỡng 1.261 điểm. Tuy nhiên, nếu điều chỉnh trở lại từ vùng 1.250 điểm, chỉ số sẽ duy trì xu hướng giảm ngắn hạn với vùng hỗ trợ gần là 1.220 điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ