Chứng khoán khởi sắc trong tuần giao dịch đầu năm

Nhàđầutư
Thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận tuần giao dịch đầu năm 2024 khởi sắc, VN-Index thậm chí có thời điểm vượt mốc 1.160 điểm trước khi kết tuần giữ vững mốc 1.150 với thanh khoản dồi dào.
KHẢ MỘC
06, Tháng 01, 2024 | 08:42

Nhàđầutư
Thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận tuần giao dịch đầu năm 2024 khởi sắc, VN-Index thậm chí có thời điểm vượt mốc 1.160 điểm trước khi kết tuần giữ vững mốc 1.150 với thanh khoản dồi dào.

Empty

Sắc xanh tiếp tục là gam màu chủ đạo của thị trường trong tuần giao dịch đầu năm. Ảnh Trọng Hiếu

Từ đầu năm 2024, chứng khoán chưa ghi nhận phiên nào giảm điểm, nhưng áp lực chốt lời đang mạnh dần.

Cụ thể, thị trường mở cửa tuần trong sắc đỏ, hai phiên tiếp theo chỉ số chung có diễn biến tăng điểm ấn tượng, lần lượt vượt đỉnh 1.150 và 1.160. Tâm lý phấn khích của các nhà đầu tư được thể hiện rất rõ qua khối lượng thanh khoản gia tăng bùng nổ trong tuần, đặc biệt là dòng vốn dồi dào đổ vào nhóm ngành ngân hàng và dịch vụ tài chính.

Tuy nhiên, sự hưng phấn của thị trường đã có phần chững lại ở phiên cuối tuần, VN-Index chốt phiên 5/1 tăng gần 4 điểm nhờ cổ phiếu ngân hàng, trong khi số mã giảm chiếm áp đảo, áp lực chốt lời tăng mạnh.

Kết thúc tuần VN-Index tăng 2,19% so với tuần cuối năm 2023 lên mức 1.154,68 điểm. Trong tuần, thanh khoản trên HOSE đạt 89.027,88 tỷ đồng, tăng 15,8% so với tuần trước, riêng ngày 4/1 ghi nhận thanh khoản trên sàn HoSE đạt gần 25.300 tỷ đồng-mức cao nhất kể từ 7/12/2023.

Nhà đầu tư nước ngoài sau 2 phiên mua ròng cuối năm 2023 đã tiếp tục bán ròng với giá trị 654,08 tỷ đồng trong tuần đầu năm 2024, tập trung vào nhóm thép, ngân hàng, dịch vụ tài chính.

Trong tuần qua, nhóm cố phiếu ngân hàng ghi nhận diễn biến tích cực như MBB (+9,92%), VCB (+7,35%), OCB (+7,15%), CTG (+7,01%), SHB (+6,94%).... Trong khi nhóm cổ phiếu chứng khoán lại có diễn biến phân hóa hơn với SSI (+4,12%), HCM (+3,55%)... tăng giá tốt với các thông tin tăng vốn, số còn lại chịu áp lực điều chỉnh, thanh khoản trên mức trung bình như FTS (-3,25%), VFS (-3,03%), VIX (-2,05%)...

SHS nhận định thị trường đang trong nhịp tăng ngắn hạn và thoát khỏi kênh tích lũy để tiệm cận ngưỡng kháng cự 1.150, trong ngắn hạn VN-Index có thể có rung lắc quanh ngưỡng cản này. Đối với nhà đầu tư ngắn hạn cần thận trọng khi VN-Index tiệm cận ngưỡng 1.150 bởi thị trường rất dễ điều chỉnh và rung lắc quanh ngưỡng này. Với nhà đầu tư trung, dài hạn, thị trường đang dần củng cố và hình thành nền tảng tích lũy nhưng quá trình này sẽ kéo dài, nhà đầu tư trung, dài hạn có thể giải ngân nhưng với quan điểm mua tích lũy dần vì thời điểm hình thành uptrend mới sẽ còn khá dài.

Về góc nhìn kỹ thuật, VCBS cho biết xu hướng chính của thị trường vẫn đang nằm trong nhịp tăng trung hạn. Tuy nhiên, xác suất xuất hiện những phiên điều chỉnh với biên độ rộng trong ngắn hạn vẫn cần được tính đến. Nhóm phân tích này khuyến nghị nhà đầu tư tại thời điểm này nên giữ tâm lý thận trọng, chỉ mua khi VN-Index vượt vùng kháng cự quanh 1.150 – 1.160 hoặc giải ngân đối với những cổ phiếu có diễn biến tích lũy tốt, giữ vững được nền giá hỗ trợ. Các nhóm ngành có thể cân nhắc trong thời gian tới là chứng khoán, bất động sản và phân đạm.

Về phần mình, VDSC cho rằng vùng 1.160 điểm vẫn có thể gây áp lực lớn cho thị trường. Dự kiến thị trường sẽ tiếp tục có dao động thăm dò cung cầu tại vùng 1.145 – 1.160 điểm trong thời gian tới trước khi có tín hiệu cụ thể hơn. Do vậy, nhà đầu tư cần chậm lại và quan sát diễn biến cung cầu, hiện tại nên ưu tiên các cổ phiếu đã tạo nền tích lũy và có động thái khởi sắc trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, trong ngắn hạn vẫn nên tận dụng các nhịp tăng của thị trường để chốt lời đối với các cổ phiếu đã tăng đến vùng kháng cự.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ