Áp lực bán mạnh quay trở lại

Nhàđầutư
Áp lực bán gia tăng mạnh vào phiên cuối tuần đã khiến cho thị trường hụt hơi, đảo chiều và mất điểm nhanh chóng, lùi sát về khu vực 1.100 điểm.
KHÁNH AN
19, Tháng 11, 2023 | 07:00

Nhàđầutư
Áp lực bán gia tăng mạnh vào phiên cuối tuần đã khiến cho thị trường hụt hơi, đảo chiều và mất điểm nhanh chóng, lùi sát về khu vực 1.100 điểm.

Empty

Nhà đầu tư được khuyến nghị cần quan sát diễn biến cung cầu trong thời gian tới để đánh giá trạng thái thị trường. Ảnh Trọng Hiếu

Thị trường có tuần giảm nhẹ, nhưng lại diễn biến khó lường với những phiên tăng, giảm mạnh đan xen. Về diễn biến cụ thể, VN-Index duy trì tốt nhịp phục hồi trong 4 phiên giao dịch từ 13-16/11 với sắc xanh lan tỏa ở hầu hết tất cả các nhóm ngành giúp chỉ số chung bật tăng mạnh mẽ và đã có lúc vượt khu vực 1.130. Thanh khoản toàn thị trường cũng được cải thiện đáng kể và vượt mức trung bình 20 phiên.

Tuy nhiên, áp lực bán gia tăng mạnh vào phiên cuối tuần đã khiến cho thị trường hụt hơi, đảo chiều và mất điểm nhanh chóng, lùi sát về khu vực 1.100, gần như xóa bỏ hết nỗ lực của phe mua trong tuần vừa qua. Thêm vào đó, việc khối ngoại bán ròng mạnh 748 tỷ cũng tác động tiêu cực đến thị trường.

Kết thúc tuần giao dịch, VN-Index giảm nhẹ 0,49 điểm (-0,04%), xuống 1.101,19 điểm. Thanh khoản trên sàn HOSE đạt 91.635 tỷ đồng, tăng 4,3% so với tuần trước, khối lượng giao dịch tăng 2,4%, trung bình đạt hơn 824 triệu cổ phiếu/phiên.

Chỉ số HNX-Index giảm 0,11 điểm (-0,05%), 226,54 điểm. Thanh khoản trên sàn đạt hơn 11.332,5 tỷ đồng, tăng hơn 10% so với tuần trước.

Xét theo mức độ đóng góp, VCB, VIC và VHM là những mã có tác động tiêu cực nhất đến VN-Index. Trong đó, tính riêng VCB đã lấy đi hơn 3,2 điểm của chỉ số này. Ở chiều ngược lại, PDR, ITA và PNJ là những mã có tác động tích cực nhất.

Nhà đầu tư nước ngoài bán ròng mạnh tuần thứ 2 liên tiếp với giá trị lên tới 1.343,3 tỷ đồng, tập trung bán mạnh ở nhóm Vingroup, cổ phiếu MWG, chứng chỉ quỹ FUESSVFL; bán ròng mạnh trên HNX với giá trị 117,84 tỷ đồng.

Trước diễn biến trên, SHS nhận định thị trường sẽ cần nhiều thời gian để tìm đến khu vực cân bằng cho quá trình tích lũy. VN-Index đang kiểm tra lại ngưỡng hỗ trợ 1.100 điểm và nếu kiểm định thành công thì có thể nối dài đà hồi phục. Nhà đầu tư ngắn hạn có thể giải ngân nếu chỉ số kiểm định hỗ trợ thành công tuy nhiên với quan điểm thận trọng bởi nhịp hồi không phải là xu hướng uptrend tiếp diễn nên sẽ có thể kết thúc bất kỳ thời điểm nào.

Trong trung, dài hạn thị trường dù mất xu hướng uptrend nhưng sẽ đi tìm điểm cân bằng mới và tích lũy lại nên rủi ro không cao. Có thể chờ đợi các nhịp điều chỉnh để xem xét giải ngân, hướng giải ngân nên lựa chọn các cổ phiếu đầu ngành có nền tảng cơ bản tốt, các cố phiếu có tiềm năng tăng trưởng ổn định đang vận động trong trạng thái tích lũy hiện nay.

Ở góc nhìn kỹ thuật, VCBS cho rằng hỗ trợ gần nhất của VN-Index sẽ quanh khu vực 1.080 – 1.090. Nếu lực cầu không trở lại sớm thì VN-Index sẽ gặp áp lực khá lớn trong việc kéo dài thêm nhịp phục hồi trong những tuần tới. Nhóm phân tích này khuyến nghị các nhà đầu tư vẫn giữ tỉ trọng cổ phiếu ở mức hợp lý từ 30 – 40%, bám sát thị trường ở những ngưỡng hỗ trợ 1.080 – 1.090 và xa hơn là 1.040 để có thể tận dụng những nhịp rung lắc mạnh nhằm giải ngân cho chiến lược giao dịch lướt sóng ngắn hạn T+.

Về phần mình, VDSC dự báo VN-Index sẽ dao động tại vùng 1.095 – 1.115 điểm trong thời gian gần tới để thăm dò cung cầu. Tuy nhiên, tín hiệu sụt giảm hiện tại có thể gây ảnh hưởng không tốt đến xu thế chung. Do vậy, nhà đầu tư cần quan sát diễn biến cung cầu trong thời gian tới để đánh giá trạng thái thị trường. Đồng thời, nên cân nhắc những nhịp hồi phục để chốt lời và cơ cấu danh mục theo hướng giảm thiểu rủi ro.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25455.00
EUR 26817.00 26925.00 28131.00
GBP 31233.00 31422.00 32408.00
HKD 3182.00 3195.00 3301.00
CHF 27483.00 27593.00 28463.00
JPY 160.99 161.64 169.14
AUD 16546.00 16612.00 17123.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18239.00 18312.00 18860.00
NZD   15039.00 15548.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3601.00 3736.00
SEK   2307.00 2397.00
NOK   2302.00 2394.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ