Thu nhập bình quân nhân viên ngân hàng trên 20 triệu đồng/ tháng trong năm 2019

Nhàđầutư
Thống kê tại gần 20 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính cho thấy, mặt bằng chung thu nhập nhân viên trong ngành này từ đầu năm vào khoảng 21,2 triệu/tháng. So với cùng kỳ năm trước, số này đã tăng 1,2 triệu đồng.
QUANG DÂN
28, Tháng 10, 2019 | 14:18

Nhàđầutư
Thống kê tại gần 20 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính cho thấy, mặt bằng chung thu nhập nhân viên trong ngành này từ đầu năm vào khoảng 21,2 triệu/tháng. So với cùng kỳ năm trước, số này đã tăng 1,2 triệu đồng.

Trong số các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý III, hiện có 3 ngân hàng trả thu nhập bình quân nhân viên trên 30 triệu đồng/tháng từ đầu năm 2019 gồm Vietcombank, MBbank và Tecombank.

thu_nhap_nhan_vien_nh_9t

Thu nhập bình quân nhân viên một số ngân hàng 9T.2019

Theo đó, thu nhập bình quân của nhân viên các ngân hàng này hiện lần lượt là 34,2 triệu; 33,5 triệu; và 32 triệu đồng cho mỗi tháng làm việc. Đặc biệt, mức thu nhập của nhân viên Techcombank từ đầu năm nay đã tăng tới 5 triệu so với cùng kỳ năm 2018. Trong khi nhân viên MBBank cũng đã được tăng lương, phụ cấp và trợ cấp thêm hơn 3 triệu từ đầu năm.

Vietcombank, MBbank và Tecombank, hiện cũng là những ngân hàng có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhất từ đầu năm, khi Vietcombank tuyển thêm gần 1.600 nhân viên, còn MBBank và Techcombank cũng đã tuyển thêm xấp xỉ 1.000 người mới vào làm việc tại ngân hàng. Đi kèm với xu hướng tăng quy mô nhân sự cũng là việc tăng quỹ lương và thu nhập của nhân viên.

Trong khi đó, thống kê tại gần 20 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính cho thấy, mặt bằng chung thu nhập nhân viên trong ngành này từ đầu năm vào khoảng 21,2 triệu/tháng. So với cùng kỳ năm trước, số này đã tăng 1,2 triệu đồng.

Trong đó, mức thu nhập bình quân thấp nhất của nhân sự trong ngành ngân hàng hiện cũng đạt xấp xỉ 13 triệu/tháng.

Nhóm ngân hàng trả thu nhập bình quân cho nhân viên ở mức này hiện bao gồm ABBank, Lienvietpostbank, Saigonbank, Kienlongbank và PGBank… dao động trong khoảng 12-14 triệu/tháng. Đây là mức thu nhập bình quân tính từ tiền lương, phụ cấp và trợ cấp mà chưa bao gồm các khoản thưởng và tiền tăng ca.

Ở nhóm các ngân hàng thương mại quy mô vừa và lớn (vốn điều lệ trên 10.000 tỷ) như ACB, Sacombank, VPBank và một số nằm ở nhóm ngân hàng cỡ nhỏ (dưới 10.000 tỷ) như TPBank và VIB, hầu hết nhân viên ngân hàng có thu nhập bình quân trên 20 triệu đồng/tháng.

Từ đầu năm, các ngân hàng đều có mức thu nhập tăng cho nhân viên, đặc biệt một số nơi tăng tới vài triệu đồng. Như trường hợp các nhân viên tại ACB từ đầu năm đến nay đã được tăng 3,3 triệu đồng thu nhập mỗi tháng so với cùng kỳ năm trước, hay nhân viên Sacombank được tăng 2,6 triệu, ABBank tăng 2,5 triệu.

Tại ngân hàng VPBank, nhờ việc cắt giảm 2.300 nhân viên, tương đương gần 1/5 lượng nhân viên tại ngân hàng mẹ mà thu nhập bình quân nhân viên đã tăng tới 4,8 triệu trong 9 tháng qua, đạt 24,6 triệu đồng/tháng. Đây cũng là nhà băng có tỷ lệ cắt giảm nhân sự lớn nhất hệ thống từ đầu năm.

Đại diện ngân hàng này cho biết, hàng năm có 2 đợt điều chỉnh lương vào giữa và cuối năm. Trong mỗi kỳ điều chỉnh, mức tăng dao động khoảng 8-10% thu nhập trung bình của nhân viên. Theo đó, việc tăng lương đã bắt đầu từ tháng 5 và đến báo cáo tài chính quý này mới được thể hiện.

Trái ngược với xu hướng tăng chung, một số ngân hàng lại điều chỉnh giảm thu nhập bình quân cho nhân viên từ đầu năm.

Con số giảm tại ngân hàng mẹ TPBank là 1,3 triệu và BacABank là 800.000 đồng/tháng. Thu nhập bình quân của nhân viên 2 nhà băng này bị giảm đến từ việc quy mô nhân sự tăng mạnh hơn quỹ lương, hiện thu nhập bình quân của nhân viên 2 nhà băng này là 24,3 triệu và 19,5 triệu đồng/tháng.

Mức thu nhập bị giảm nhiều nhất là nhân viên tại ngân hàng mẹ BIDV. Dù nằm trong nhóm 4 ngân hàng lớn nhất hệ thống, nhưng thời gian qua BIDV đã cắt giảm hơn 15% quỹ lương, phụ cấp và trợ cấp của nhân viên. Điều này khiến thu nhập bình quân nhân viên tại đây giảm từ mức 26,7 triệu năm nước, xuống còn 22,3 triệu đồng hiện tại.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ