SSI: Lợi nhuận ngân hàng quý I ước tăng từ 55-65%

Nhàđầutư
Trong báo cáo chiến lược thị trường tháng 4/2021, SSI cho biết, ngành ngân hàng tiếp tục tăng trưởng vượt trội so với các ngành khác trong quý I, ước tính lợi nhuận trước thuế tăng khoảng 55% - 65% so với cùng kỳ.
ĐÌNH VŨ
07, Tháng 04, 2021 | 14:47

Nhàđầutư
Trong báo cáo chiến lược thị trường tháng 4/2021, SSI cho biết, ngành ngân hàng tiếp tục tăng trưởng vượt trội so với các ngành khác trong quý I, ước tính lợi nhuận trước thuế tăng khoảng 55% - 65% so với cùng kỳ.

Theo , trong những tháng đầu năm, nhóm VN30 đã lấy lại được động lực với mức tăng 4,49% và khối ngoại cũng đã giảm bán ròng rõ rệt; vùng cản tâm lý 1.200 điểm được vượt qua một cách thuyết phục và hiện trở thành vùng hỗ trợ mạnh giúp nhà đầu tư tự tin hơn ở mặt bằng giá mới.

SSI cho biết, nhiều giải pháp đang được các cơ quan quản lý tích cực triển khai nhằm khắc phục tình trạng quá tải hệ thống trên HoSE và đây cũng sẽ là yếu tố thuận lợi thúc đẩy VNIndex thêm động lực hướng tới vùng mục tiêu gần là 1.250 điểm và xa hơn là 1.350 - 1.400 điểm trong thời gian tới, tương ứng P/E mục tiêu 18 lần của VNIndex.

Ngành ngân hàng tiếp tục tăng trưởng vượt trội so với các ngành khác trong quý 1/2021, nhờ tỷ suất lợi nhuận tương đối hấp dẫn và triển vọng tín dụng được cải thiện khi hầu hết các ngân hàng đã đẩy nhanh xóa nợ xấu và tăng cường trích lập dự phòng bao nợ xấu trong quý 4/2020.

SSI cho biết, các ngân hàng trong phạm vi nghiên cứu, so với cùng kỳ ước tính lợi nhuận trước thuế sẽ tăng khoảng 55% - 65%. Khối nhà băng quốc doanh có khả năng sẽ đạt được mức tăng trưởng ngoạn mục hơn bình quân khi nhóm này đã tăng cường trích lập dự phòng để giải quyết các tài sản có vấn đề.

Chiếm tỷ trọng vốn hóa khoảng 30% trên VN Index, nhóm cổ phiếu ngân hàng có nhiều động lực dẫn dắt thị trường chung trong thời gian tới. 

Trong tháng 3, cùng diễn biến với các chỉ số thị trường, đà tăng theo từng nhóm ngành tuy chậm lại nhưng hầu hết vẫn đóng cửa cao hơn tháng trước.

Như nhóm tài chính tăng 5,6%, bất động sản tăng 3,3%, vật liệu tăng 5,7% và là 3 nhóm trụ cột nâng đỡ cho VNIndex. Trong đó, một số cổ phiếu có múc tăng đáng kể gồm: VPB tăng 11,63%, CTG tăng 7,79%, VIB tăng 21,9%, SSB tăng 39,7%, STB tăng 16,89%, TCB tăng 2,93%.

co-phieu-vnindex

 

Tính từ đầu năm, nhóm tài chính, bất động sản và vật liệu tăng trưởng lần lượt 17,6%, 13,7% và 15,7%. Nhóm Công nghệ thông tin cho tăng trưởng 30,3% với tỷ trọng đóng góp lớn từ FPT khi giá cổ phiếu này cũng tăng 31,4% trong quý 1/2021.

tang-truong-nganh

 

Về điều kiện hỗ trợ cho thị trường trong thời gian tới, SSI cho rằng, lãi suất tiền gửi đã giảm tổng cộng 2 - 2,5% trong năm 2020. Trong quý 1/2021, ghi nhận một số điều chỉnh tăng/giảm từ 0,1-0,4% tại một số NHTM nhưng hầu hết giữ nguyên mức lãi suất tiền gửi ở mức 3-4%/năm với kỳ hạn dưới 6 tháng, 3,5-5,5%/năm với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng và 4,6-6%/nămvới kỳ hạn 12 tháng trở lên.

Dù lãi suất tiền gửi giảm sâu xuống mức thấp chưa từng có nhưng huy động của các NHTM vẫn rất khả quan, cùng với đó là sự sụt giảm của cầu tín dụng khiến cho chênh lệch tiền gửi - tín dụng từ đầu năm 2020 đến này giãn khá rộng (tính đến 19/3/2021, tăng trưởng tín dụng là 1,47%; tăng trưởng tiền gửi là 0,54%). Có thể nói các NHTM đã chủ động giảm huy động để thu hẹp chênh lệch với dư nợ cho vay để đảm bảo mức sinh lời của ngân hàng.

Trong năm 2020, lãi suất cho vay đã giảm từ 1 - 1,5%. Nhờ vậy, biên lãi ròng (NIM) của hầu hết các NHTM đã tăng rất mạnh trong nửa cuối năm 2020 và hiện ở mức cao lịch sử, khoảng 4%. Bởi vậy, nếu lãi suất tiền gửi duy trì ở mức thấp, các NHTM sẽ có cơ sở để giảm thêm lãi suất cho vay cho khách hàng bằng cách thu hẹp NIM về mức thông thường là 3,5%. 

lai-suat

 

SSI kỳ vọng tăng trưởng GDP so với cùng kỳ của quý 2/2021 sẽ là đỉnh của năm 2021 và sau đó sẽ ổn định từ nửa cuối 2021, đạt mức 6-6,5% trong cả năm 2021 và 7% năm 2022.

Hoạt động kinh tế sôi động sẽ khiến cầu tín dụng tăng mạnh hơn, lạm phát cũng tăng cao hơn trong nửa cuối 2021 khiến lãi suất tiền gửi gia tăng. Mặt bằng lãi suất tiền gửi vẫn tiếp tục ổn định trong hầu hết quý 2/2021 nhưng có thể nhích tăng từ 0,3-0,5% trong nửa cuối năm 2021. Lãi suất cho vay đối một số lĩnh vực ưu tiên có thể điều chỉnh giảm nhẹ ở một số ngân hàng nhưng về cơ bản mặt bằng lãi suất chung sẽ vẫn ổn định.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ