Góc khuyết lợi nhuận nhà băng nội

Cùng môi trường kinh doanh, chịu tác động giống nhau về mặt vĩ mô, tuy nhiên khả năng sinh lời của các ngân hàng nước ngoài cao hơn nhiều ngân hàng trong nước.
YÊN LAM
28, Tháng 04, 2017 | 17:13

Cùng môi trường kinh doanh, chịu tác động giống nhau về mặt vĩ mô, tuy nhiên khả năng sinh lời của các ngân hàng nước ngoài cao hơn nhiều ngân hàng trong nước.

ngan-hang-ngoai-1474248045685

Các ngân hàng nước ngoài có nguồn thu bền vững hơn nhiều các ngân hàng nội 

Nguyên nhân là do bên cạnh lợi thế dòng vốn rẻ, các ngân hàng nước ngoài còn thận trọng trong cho vay và có được nguồn thu bền vững từ dịch vụ.

Ngoại lãi lớn, nội chật vật 

Đầu tháng 4-2017, HSBC Việt Nam công bố báo cáo tài chính năm 2016. Theo đó, đến cuối năm 2016 tổng tài sản của ngân hàng này đạt hơn 71.138 tỷ đồng, vốn điều lệ 7.528 tỷ đồng, nhưng tổng lợi nhuận trước thuế đạt đến 1.801 tỷ đồng (tăng 46% so với năm 2015), lợi nhuận sau thuế đạt 1.441 tỷ đồng.

Thông tin từ ANZ cũng cho biết quy mô tổng tài sản của ngân hàng năm 2016 đạt 39.000 tỷ đồng, giảm hơn 15% so với thời điểm đầu năm. Vốn điều lệ của ngân hàng cũng chỉ ở mức 3.000 tỷ đồng, quy mô ngang với ngân hàng cỡ nhỏ ở Việt Nam. Tuy nhiên, ANZ Việt Nam lại đạt lãi sau thuế 452 tỷ đồng, gấp rưỡi năm 2015. 

Có thể thấy, lợi nhuận của các ngân hàng nói trên chủ yếu đến từ mảng dịch vụ. Cụ thể, thu nhập lãi thuần trong năm của HSBC đạt 2.396 tỷ đồng, tăng nhẹ so với năm 2015. Còn lãi thuần từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng này đạt 628 tỷ đồng.

Đáng chú ý, lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối tăng mạnh tới 66% lên 754 tỷ đồng. Song song đó, chi phí hoạt động của HSBC giảm so với năm trước còn 1.845 tỷ đồng.

Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng giảm mạnh 70% xuống còn 61,5 tỷ đồng. Tại ANZ, tính đến cuối năm 2016, cho vay khách hàng đạt 14.100 tỷ đồng, giảm 13,4%. Tiền gửi của khách hàng đạt 32.600 tỷ đồng, giảm 8%. Do tín dụng tăng trưởng âm nên thu nhập lãi thuần của ANZ bị sụt giảm, chỉ còn 1.230 tỷ đồng, giảm 8% so với năm 2015.

Song do cải thiện được kết quả thu nhập từ kinh doanh ngoại hối, chứng khoán đầu tư cũng như lợi thế từ hoạt động dịch vụ, lãi sau thuế của ANZ đã tăng 50% so với kết quả 300 tỷ đồng đạt được trong năm 2015.

So sánh các ngân hàng trong nước có vốn điều lệ tương đương với hai ngân hàng này, có thể nói các ngân hàng nước ngoài đang ăn nên làm ra, khả năng sinh lời rất tốt, còn ngân hàng Việt Nam dù liên tục ghi nhận tăng trưởng tín dụng với tỷ lệ cao nhưng kết quả lợi nhuận vẫn không theo kịp ngân hàng ngoại.

Trong năm 2016, nhóm các ngân hàng có vốn điều lệ trên dưới 3.000 tỷ đồng ghi nhận lợi nhuận khá thấp, như lãi trước thuế của NCB chỉ 16,5 tỷ đồng và sau thuế 13,2 tỷ đồng. Saigonbank ghi nhận lợi nhuận sau thuế 139,4 tỷ đồng, tổng lợi nhuận sau thuế của KienLongBank năm 2016 là 121 tỷ đồng, giảm 27% so với năm 2015.

Còn trong nhóm ngân hàng có vốn điều lệ từ 5.000-7.000 tỷ đồng, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh dao động từ gần 400 tỷ đồng đến dưới 1.000 tỷ đồng.

Ưu thế phát triển dịch vụ

nguyentrihieu-ldo-pine-ghlz-1482218521669

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng 

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đạt kết quả kinh doanh khả quan hơn ngân hàng trong nước vì 2 lý do. Thứ nhất, các ngân hàng ngoại được hỗ trợ vốn từ ngân hàng mẹ và những ngân hàng liên quan đến họ ở nước ngoài với dòng vốn rẻ hơn.

Thứ hai, dù quy mô hoạt động của các ngân hàng nước ngoài còn nhỏ so với các ngân hàng Việt Nam, tổng tài sản của các ngân hàng này chỉ chiếm khoảng 10-15% tổng tài sản hệ thống NHTM, nhưng lại kinh doanh rất cẩn thận, bài bản nên tránh được nợ xấu. Từ đó dự phòng rủi ro thấp, không ăn mòn lợi nhuận của ngân hàng như các ngân hàng trong nước, đóng góp vào mức tăng lợi nhuận bên cạnh chi phí vốn rẻ.

TS. Bùi Quang Tín, Trường Đại học Ngân hàng TPHCM nhận định, những năm qua cơ cấu lợi nhuận cũng như doanh thu của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam khác hoàn toàn với cơ cấu của ngân hàng trong nước. Trên 70% doanh thu đóng góp vào lợi nhuận của các ngân hàng trong nước đến từ tín dụng, thậm chí có ngân hàng là 85-90%, trong khi tín dụng ở Việt Nam gắn với nợ xấu, trích lập dự phòng nợ xấu dẫn đến lợi nhuận, lợi nhuận làm ra bù lại trích lập nên kết quả còn lại không cao.

Cơ cấu kinh doanh của ngân hàng nước ngoài phụ thuộc vào dịch vụ và nguồn thu từ dịch vụ chiếm trên 70%. Khi kiếm tiền bằng dịch vụ, nguồn tiền rất bền vững, doanh thu làm ra chỉ trừ những chi phí liên quan và không phải trích lập dự phòng. 

Vài năm gần đây, hầu như ngân hàng nội nào cũng tuyên bố sẽ cải thiện dịch vụ để giảm phụ thuộc vào tín dụng. Tuy nhiên, báo cáo tài chính của các ngân hàng cho thấy, lợi nhuận vẫn chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng. Hiện nay, các ngân hàng đã đẩy mạnh phát triển dịch vụ, song mức độ cải thiện vẫn còn chậm và xu hướng chung của các ngân hàng vẫn phải tiếp tục chạy đua huy động và cho vay, thậm chí nhiều ngân hàng còn muốn xin phép NHNN tăng hạn mức tín dụng được cấp để thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận.

Một số ngân hàng cho biết để tăng thu dịch vụ, họ đã đẩy mạnh mảng bán lẻ. Song trong chiến lược bán lẻ cũng chủ yếu đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, chưa có nhiều kế hoạch khai thác dịch vụ phi tài chính khác.

Trong kế hoạch tái cơ cấu các tổ chức tín dụng giai đoạn 2016-2020. NHNN yêu cầu các ngân hàng tăng nguồn thu dịch vụ lên trên 30%, thời gian thực hiện chậm nhất cuối năm 2020. Đó là hướng đi đúng phù hợp với xu hướng trên thế giới, còn nếu lợi nhuận chỉ trông chờ vào tín dụng sẽ gây ra nhiều khó khăn cho ngân hàng, vì tín dụng tại Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thị trường bất động sản và sức khỏe của các doanh nghiệp.

(Theo Sài Gòn đầu tư tài chính)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ