Việt Nam đang ở đâu trên con đường nâng hạng thị trường chứng khoán?

SSI Retail Research cho rằng ở kịch bản thuận lợi nhất, Việt Nam có thể được MSCI nâng hạng lên Emerging Markets vào năm 2020.
BÌNH AN
11, Tháng 04, 2018 | 14:17

SSI Retail Research cho rằng ở kịch bản thuận lợi nhất, Việt Nam có thể được MSCI nâng hạng lên Emerging Markets vào năm 2020.

climbing up

 Theo Công ty Chứng khoán Sài Gòn, sớm nhất thì cũng phải năm 2020 thì TTCK Việt Nam mới được nâng hạng 

Theo Bộ phận phân tích khách hàng cá nhân của CTCP Chứng khoán Sài Gòn (SSI Retail Research), tính tới hết quý I/2018, quy mô TTCK Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng và đạt 191 tỷ USD, tương đương 95% GDP năm 2016, tăng 24,7% so với cuối năm 2017.

Mức vốn hóa này gần bằng UAE, Philippines và vượt qua nhiều thị trường mới nổi như Qatar (131 tỷ USD), Pakistan (82 tỷ USD), Ai Cập (58 tỷ USD). Thanh khoản thị trường cũng tăng mạnh đạt mức bình quân 8.800 tỷ đồng/phiên trong quý I/2018, tăng 80% so với mức trung bình năm 2017.

Theo ước tính của SSI Retail Research, ở Việt Nam, thời điểm hiện tại đã có 5 cổ phiếu thỏa mãn các điều kiện yêu cầu của MSCI và có thể được thêm vào bộ chỉ số Emerging Markets Indexes trong trường hợp Việt Nam được nâng hạng.

Nhìn rộng hơn, SSI Retail Research thấy có thêm 9 cổ phiếu có thể thỏa mãn các điều kiện này trong tương lai không xa. Các cổ phiếu này đều có giá trị vốn hóa cao trên 2 tỷ USD và có mức thanh khoản tốt, tuy nhiên chưa đạt yêu cầu về giá trị vốn hóa tự do chuyển nhượng do tỷ lệ free-float thấp. Trong tương lai, với các kế hoạch thoái vốn nhà nước được đẩy mạnh thực thi và khả năng nới room nước ngoài ở một số cổ phiếu gần kín room, 9 cổ phiếu này sẽ là những lựa chọn tiềm năng để MSCI đưa vào danh mục các chỉ số EM Indexes.

SSI graph

 

Về cơ bản, Việt Nam đã thỏa mãn các điều kiện định lượng liên quan tới quy mô thị trường và quy mô giao dịch. Các điều kiện định tính là những rào cản cuối cùng để MSCI cũng như các tổ chức phân loại thị trường khác như FTSE và S&P cân nhắc khả năng nâng hạng. Trong đó, nền tảng công nghệ và cơ sở hạ tầng dần được cải thiện với sự nỗ lực của các cơ quan quản lý thị trường. Sự ra mắt thị trường phái sinh đã cung cấp cho nhà đầu tư công cụ cần thiết để phòng ngừa rủi ro. Hoạt động công bố thông tin bằng tiếng Anh không phải trở ngại lớn nhưng cần thực hiện sớm để tạo sự bình đẳng với nhà đầu tư nước ngoài. Quá trình nới room ngoại và thoái vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp niêm yết cần đẩy nhanh để gia tăng hơn nữa quy mô đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài. Việc duy trì ổn định các cân đối vĩ mô đang được Chính phủ và NHNN thực hiện tốt, giúp tạo niềm tin cho cộng đồng đầu tư quốc tế. Quan trọng hơn, thị trường ngoại hối cần được tổ chức linh hoạt hơn để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển dòng vốn của nhà đầu tư ra vào lãnh thổ Việt Nam.

SSI Retail Research cho rằng, ở kịch bản thuận lợi nhất, Việt Nam có thể được MSCI nâng hạng lên Emerging Markets vào năm 2020. Nhưng trước đó cần ít nhất 1 năm để MSCI xin ý kiến tư vấn đánh giá từ cộng đồng đầu tư quốc tế và thêm 1 năm để các quỹ đầu tư chuẩn bị cho các thay đổi và tái cơ cấu các danh mục đầu tư. Theo lịch định kỳ, tháng 6 tới đây sẽ là thời điểm MSCI công bố kết quả đánh giá phân loại thị trường hàng năm và chuẩn bị danh sách các thị trường cần tư vấn đánh giá cho kỳ tiếp theo.

Như vậy, giả định Việt Nam được MSCI nâng xếp hạng lên Emerging Markets, 5 cổ phiếu đã đạt điều kiện có tổng giá trị vốn hóa (điều chỉnh free float) đạt 14 tỷ USD và ước tính có thể chiếm tỷ trọng 0,25% trong rổ chỉ số MSCI Emerging Markets Index. Ước tính sơ bộ, 5 cổ phiếu này có thể thu hút 4 tỷ USD trong tổng số 1.600 tỷ USD giá trị tài sản đầu tư vào bộ chỉ số MSCI Emerging Markets Indexes.

Nếu cộng thêm 9 cổ phiếu tiềm năng, tổng giá trị vốn hóa (điều chỉnh free float) của nhóm này có thể đạt 30 tỷ USD, tương đương mức tỷ trọng 0,54% và ứng với 8,7 tỷ USD vốn ngoại vào thị trường Việt Nam. Con số chắc chắn sẽ còn thay đổi nhanh, bởi trong tương lai gần sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp lớn lên niêm yết. 

(Theo NDH)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ