Lãi suất qua đêm dưới 1%/năm, NHNN hút tiền về

NHNN đã sử dụng trở lại công cụ tín phiếu lần đầu tiên sau 4 tháng với 37.000 tỷ đồng được phát hành. Lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tín phiếu, trái phiếu đều giảm sâu. Đây cũng là tuần thứ 2 sau khi NHNN quyết định giảm lãi suất điều hành.
THANH THỦY
25, Tháng 07, 2017 | 09:54

NHNN đã sử dụng trở lại công cụ tín phiếu lần đầu tiên sau 4 tháng với 37.000 tỷ đồng được phát hành. Lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tín phiếu, trái phiếu đều giảm sâu. Đây cũng là tuần thứ 2 sau khi NHNN quyết định giảm lãi suất điều hành.

Tin phieu kho bac

 Những ngày gần đây NHNN liên tục hút tiền về thông qua phát hành tín phiếu Kho bạc Nhà nước

Theo Báo cáo thị trường tiền tệ của SSI Retail Research, trong tuần thứ 3 của tháng 7, lãi suất liên ngân hàng tiếp tục giảm sâu. Lãi suất qua đêm chạm 0,7%/năm, dưới ngưỡng 1%/năm lần đầu tiên kể từ tháng 11/2016 và ngang với mặt bằng lãi suất cùng kỳ năm ngoái. Tương tự, lãi suất các kỳ hạn 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng cũng đang được giao dịch ở 0,8%, 2,0% và 3,5%, mức thấp nhất kể từ đầu năm 2017.

Tín hiệu thanh khoản tốt còn thể hiện qua việc NHNN phát hành trở lại tín phiếu lần đầu tiên sau 4 tháng. Trong 5 phiên liên tiếp, NHNN đã phát hành được tới 37 nghìn tỷ tín phiều kỳ hạn 7 ngày, đây là khối lượng lớn tín phiếu được phát hành trong một thời gian ngắn.

Đặc biệt hơn là lãi suất tín phiếu giảm nhanh sau mỗi phiên phát hành, từ mức 1,3%/năm trong ngày đầu tuần xuống chỉ còn 0,5% vào ngày kết thúc tuần. Mức 0,5% cũng thấp hơn nhiều lãi suất cùng kỳ 2016 là 1,5% - 1,75%. Điều này cho thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang ở trong trạng thái rất tốt.

Trái phiếu Chính phủ đắt hàng, lãi suất giảm mạnh

Điều kiện thị trường đang tỏ ra rất thuận lợi cho Kho bạc Nhà nước để phát hành trái phiếu. Một mặt, thanh khoản hệ thống ngân hàng đang dồi dào. Một mặt, áp lực phát hành trái phiếu không còn quá lớn khi KBNN đã hoàn thành tới 70% kế hoạch năm trong khi giải ngân vốn trái phiếu chậm.

Các thành viên thị trường cũng hiểu vấn đề này nên mức bỏ thầu cũng “mềm” đi rõ rệt, bộ phận phân tích của SSI nhận định. Cụ thể ở kỳ hạn 5 năm, mức lãi suất đặt thầu thấp nhất đã xuống tới 4,2%/năm, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ là 6%/năm.

Khối lượng gọi thầu của KBNN tuần qua giảm xuống 3,6 nghìn tỷ đồng với 3 kỳ hạn 5, 15 và 20 năm. Lượng trái phiếu gọi thầu giảm dần kể từ đầu tháng 6 tạo ra tín hiệu “tiết cung” khiến các thành viên thị trường càng phải tích cực đấu thầu hơn. KBNN có thêm phiên phát hành thành công thứ 3 liên tiếp với tỷ lệ trúng thầu 100%.

Không chỉ kỳ hạn 5 năm, các kỳ hạn còn lại cũng có mức lãi suất đặt thầu thấp nhất giảm 40bps – 50 bps khiến lãi suất trúng thầu giảm xuống mức rất thấp. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm giảm 21bps, từ 4,69% xuống 4,48%, kỳ hạn 15 năm giảm -50bps từ 6,25% xuống 5,75%, và kỳ hạn 20 năm giảm 53bps từ 6,55% xuống 6,02%.

Cùng chung xu hướng với thị trường sơ cấp, lợi tức trái phiếu trên thị trường thứ cấp tiếp tục giảm sâu. Trong đó, lợi tức kỳ hạn 1 năm và 7 năm giảm mạnh, xuống mức thấp nhất nhiều năm.

Thanh khoản thị trường duy trì ở mức cao, tổng khối lượng giao dịch cả tuần đạt 50,9 nghìn tỷ đồng, tương đương bình quân 10,2 nghìn tỷ đồng mỗi phiên, tăng 7,8% so với tuần trước.

Đáng chú ý, giao dịch mua vào của khối ngoại tăng mạnh đạt 3 nghìn tỷ đồng, mức cao nhất trong 23 tuần, bất chấp CDS trái phiếu Việt Nam tiếp tục tăng nhẹ. Giá trị bán của nhà đầu tư nước ngoài giảm nhẹ xuống 1,16 nghìn tỷ đồng khiến giá trị mua ròng của khối ngoại tăng mạnh lên 1.86 nghìn tỷ đồng, cao nhất 16 tuần. Tổng giá trị mua ròng từ đầu năm của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng lên 18,8 nghìn tỷ.

(Theo NDH)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ