Điểm danh những doanh nghiệp hưởng lợi nhờ VND ổn định

Tỷ giá giao dịch USD/VND giảm 0,11% trên ngân hàng và giảm 0,39% trên thị trường tự do so với cuối năm 2018. Nhiều doanh nghiệp giảm mạnh chi phí tài chính nhờ tỷ giá được duy trì ổn định trong khi cùng kỳ năm trước biến động mạnh.
NGỌC ĐIỂM
25, Tháng 10, 2019 | 11:06

Tỷ giá giao dịch USD/VND giảm 0,11% trên ngân hàng và giảm 0,39% trên thị trường tự do so với cuối năm 2018. Nhiều doanh nghiệp giảm mạnh chi phí tài chính nhờ tỷ giá được duy trì ổn định trong khi cùng kỳ năm trước biến động mạnh.

Theo Bộ phận phân tích khách hàng cá nhân Chứng khoán SSI (SSI Retail Research), trong khi các đồng tiền chủ chốt đều biến động mạnh, có những đồng tiền mất giá tới 8-11% (như đồng won Hàn Quốc, đồng krona Thụy Điển) nhưng cũng có những đồng tiền lên giá 5-7% (như đồng rúp Nga, đồng bath Thái) so với USD, VND trở thành một trong những đồng tiền hiếm hoi có tỷ giá ổn định.

Từ đầu năm đến nay, VND có một lần tạo sóng từ cuối tháng 4 đến hết tháng 5 nhưng mức tỷ giá mua vào của các ngân hàng ở đỉnh sóng cũng chỉ tăng 0,84% so với cuối năm 2018, ở mức 23.360 đồng/USD, sau đó nhanh chóng hạ nhiệt. Ngay cả khi áp lực rất lớn và đột ngột đến từ tỷ giá USD/CNY vượt qua ngưỡng 7.0 và CNY liên tục giảm giá, mức giảm lên tới gần 4% chỉ trong tháng 8; VND vẫn đi ngang, thậm chí còn giảm.

So với thời điểm cuối năm 2018, tỷ giá giao dịch USD/VND đã giảm 0,11% trên ngân hàng và giảm tới 0,39% trên thị trường tự do.

ty-gia1-4649-1571822342

 

Việc tỷ giá USD/VND duy trì ổn định trong 9 tháng qua đã giúp nhiều doanh nghiệp tăng doanh thu cũng như tiết giảm chi phí tài chính so với cùng kỳ khi đánh giá lại giao dịch ngoại tệ thực hiện trong kỳ và số dư ngoại tệ cuối kỳ. Đặc biệt là các doanh nghiệp có vay nợ bằng USD, yên Nhật (JPY), đồng Euro (EUR) - mà chủ yếu là doanh nghiệp nhiệt điện hoặc các doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường mà đồng tiền tăng giá mạnh so với USD.

Lọc hóa dầu Bình Sơn (UPCoM: BSR) có khoản vay bằng USD lớn trị giá khoảng 8.700 tỷ đồng và xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Singapore, Malaysia. Đơn vị ghi nhận lãi chênh lệch tỷ giá 9 tháng (bao gồm đã thực hiện và do đánh giá lại số dư ngoại tệ) đạt 140 tỷ đồng trong khi cùng kỳ năm trước chỉ 43 tỷ đồng. Ngược lại, lỗ chênh lệch tỷ giá giảm từ 300 tỷ đồng xuống 40 tỷ đồng. Như vậy, riêng vấn đề tỷ giá đã đem lại khoản chênh lệch tăng 357 tỷ đồng cho lợi nhuận công ty so cùng kỳ.

9 tháng, công ty đạt 73.926 tỷ đồng doanh thu thuần và 1.251 tỷ đồng lãi sau thuế, lần lượt thực hiện 75% và 43% chỉ tiêu năm.

Công ty Nhiệt điện Hải Phòng (UPCoM: HND) cho biết nhờ đồng USD và JPY tăng thấp hơn cùng kỳ mà chi phí chênh lệch tỷ giá giảm đáng kể. Cụ thể, khoản lỗ chênh lệch tỷ giá 9 tháng của doanh nghiệp nhiệt điện này chỉ ghi nhận ở mức 28 tỷ đồng, giảm mạnh so với con số 333 tỷ đồng cùng kỳ năm trước. Theo đó, chi phí tài chính giảm mạnh từ 720 tỷ về 325 tỷ đồng góp phần quan trọng giúp HND đạt 607 tỷ đồng lãi sau thuế, gấp 3,3 lần cùng kỳ trong khi lợi nhuận gộp chỉ tăng 3% cùng kỳ.

Theo BCTC soát xét bán niên, HND có khoản vay bằng USD trị giá 5.310 tỷ đồng và bằng JPY 682 tỷ đồng, giảm 12% và 14% so với đầu năm. Đây là các khoản vay đơn vị nhận nợ lại từ Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) để hoàn thành dự án nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 1 và 2.

Tương tự, Điện lực dầu khí Nhơn Trạch 2 (HoSE: NT2) cũng có khoản vay gốc ngoại tệ (USD và EUR) lớn. Tính đến 30/9, đơn vị còn nợ 44,7 triệu USD và 40 triệu EUR.

Diễn biến ổn định của tiền đồng giúp đơn vị ghi nhận lãi chênh lệch tỷ giá 48 tỷ, gần gấp 5 lần 9 tháng 2018. Trong khi lỗ chênh lệch tỷ giá giảm từ 42 tỷ cùng kỳ về 3,5 tỷ. Nhờ vậy, dù lợi nhuận gộp giảm 10% nhưng lãi sau thuế 9 tháng vẫn tăng 4% đạt 548 tỷ đồng.

Thực phẩm Sao Ta (HoSE: FMC) chuyên xuất khẩu tôm với các thị trường chính gồm Mỹ, EU và Nhật Bản cho biết cặp tỷ giá USD/VND ổn định hơn giúp giảm chi phí tài chính đáng kể. Cụ thể, khoản lỗ chênh lệch tỷ giá của công ty 9 tháng qua giảm từ 19 tỷ về 6 tỷ đồng giúp chi phí tài chính giảm từ 36,2 tỷ về 20 tỷ đồng.

Đồng thời, biên lãi gộp cải thiện từ 9% lên 11%, lãi gộp 9 tháng của FMC tăng 17,5% đạt 302 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt 168 tỷ đồng, tăng 41% trong bối cảnh ngành tôm khó khăn.

fmc-bd-6814-1571823059

 

9 tháng, Công ty Sợi Thế Kỷ (HoSE: STK) ghi nhận lợi nhuận sau thuế đạt 161 tỷ đồng, tăng 23% so cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận tăng trưởng trong bối cảnh ngành sợi khủng hoảng dưới ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nhờ 2 động lực.

Đó là, tuy mặt hàng truyền thống (sợi nguyên sinh) giảm so cùng kỳ nhưng mặt hàng mới sợi tái chế recycle có mức tăng tốt đã giúp doanh thu chỉ giảm nhưng lãi gộp tăng thêm 4 tỷ đồng lên 258 tỷ đồng. Hơn nữa, chi phí tài chính trong kỳ của công ty giảm mạnh từ 50 tỷ về 27,2 tỷ đồng, riêng lỗ chênh lệch tỷ giá giảm từ 30 tỷ về 4,6 tỷ đồng.

Sợi Thế Kỷ có 50% doanh thu đến từ hoạt động xuất khẩu với các thị trường chính gồm Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Pakistan và Mỹ.

(Theo Người đồng hành)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ